còn buổi học cuối cùng này thôi

Nếu tháng học trò qua đi trong những mơ mộng đầu đời tinh khôi của tuổi mới lớn, thì có lẽ, năm tháng sinh viên là những khoảnh khắc ta cảm nhận nhiều nhất về sự trưởng thành trước cuộc sống. Cứ ngỡ khoảng thời gian 4 năm đại học sẽ dài lắm, nào ngờ chỉ là một thoáng thoi đưa. Kỳ cuối, bữa học a. Xuất xứ. Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị Truyện ngắn Buổi học cuối cùng của nhà văn nổi tiếng An-phông-xơ Đô-đê (1840 - 1897) kể về lớp Tiểu học ở một làng quê nhỏ bé vùng An-dát, Lo-ren vào thời kì bị quân Phổ (Đức) chiếm đóng. Chính quyền Phổ sau khi thắng Pháp đã cắt phần đất giáp biên giới này Ngày con đi con trồng cây bưởi. Nơi góc vườn để lấy trái bố ăn. Tháng tám đến trăng hội đêm rằm. Có hoa bưởi để khấn hương hồn mẹ. Nơi xa quê mỗi xuân về con nhắc khẽ. Góc vườn nhà hoa bưởi trắng thơm hương. Có nhớ con bố hãy ra vườn. Chăm cho bưởi_ngắt hoa Trả lời: - Ngôi kể thứ nhất: nhân vật Phrăng xưng tôi kể về buổi học cuối cùng tiếng Pháp của thầy Ha-men. - Tác dụng của ngôi kể thứ nhất: giúp câu chuyện trở nên chân thực hơn, giàu sự tin tưởng hơn, nhân vật Phrăng bộc lộ tâm trạng, tình cảm dễ dàng hơn và After 2 Months Of Dating What To Expect. Tác giả tác phẩm lớp 7Để giúp các em học sinh nắm rõ những thông tin cơ bản về tác phẩm Buổi học cuối cùng - Ngữ văn 7 sách Cánh diều tập 1, VnDoc gửi tới các bạn Lý thuyết Văn 7 bài Buổi học cuối cùng bao gồm các thông tin về tác giả An-phông-xơ Đô-đê và tác phẩm như bố cục, giá trị nội dung, nghệ thuật, tóm tắt tác phẩm.... Sau đây mời các bạn tham ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài Đôi nét về tác giả An-phông-xơ Đô-đê 1840 - 1897- Quê quán Nimes, miền Nam nước Pháp- Cuộc đờiTuổi thơ lận đận khi xí nghiệp của cha bị phá sản và bố mẹ ly hônÔng thôi học khi đang học trung học và bắt đầu lập nghiệp tại Paris khi mới 12 tuổi- Sự nghiệp sáng tácÔng bắt đầu sáng tác khi mới 14 tuổi và tiếp tục sáng tác bền bỉ trong suốt cuộc đờiCác tác phẩm của ông được dân chúng đón nhận nhiệt tình và thành công vang dộiÔng sáng tác ở nhiều thể loại và đều có thành tựu đáng kể, đặc biệt là thơ và tiểu thuyếtTác phẩm tiêu biểu Thằng nhóc con, Những lá thư từ cối xay của tôi, Fromont cháu trẻ và cụ Riler, Tartarin vùng Tarascon...II. Đôi nét về tác phẩm Buổi học cuối cùng1. Xuất xứTác phẩm Buổi học cuối cùng Chuyện của một em bé người An-dát là 1 truyện ngắn nằm trong tuyển tập truyện Truyện kể ngày thứ hai của nhà văn An-phông-xơ Bối cảnh Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học tiếng Đức. Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng Thể loại- Truyện ngắn4. Phương thức biểu đạt- PTBĐ tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm5. Ngôi kể- Ngôi thứ nhất, xưng tôi- Tác dụng giúp cho những hình ảnh, tình cảm trong câu chuyện được kể trở nên chân thực hơn, sống động hơn, truyền cảm hơn và dễ dàng lay động trái tim độc Tóm tắt văn bản Buổi học cuối cùngChuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM".Tham khảo thêm các mẫu tóm tắt khác tại đây Tóm tắt truyện Buổi học cuối cùng7. Bố cục văn bản Buổi học cuối cùng- Gồm 3 phầnSTTGiới hạnNội dungPhần 1Từ đầu → "mà vắng mặt con"Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của PhrăngPhần 2"Tôi bước qua ghế dài" → "nhớ mãi buổi học cuối cùng này"Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi ngườiPhần 3Phần còn lạiCảnh kết thúc buổi học cuối cùng8. Giá trị nội dung văn bản Buổi học cuối cùngQua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”9. Giá trị nghệ thuật văn bản Buổi học cuối cùng- Khắc họa nhân vật qua việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng- Ngôi kể thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực, hấp dẫn- Ngôn ngữ tự nhiên với giọng kể chân thành, xúc động, truyền cảm10. Ý nghĩa nhan đềNhan đề Buổi học cuối cùng đã hé lộ nội dung của tác phẩm - kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng của người dân Pháp ở vùng An-dát. Đồng thời đó cũng là một lời thông báo, tuyên bố đầy xót xa, cay đắng cho người dân xứ An-dát, rằng từ bây giờ họ - những người con nước Pháp sẽ không còn được học tiếng Pháp Dàn ý phân tích tác phẩm Buổi học cuối cùng1. Mở bài- Giới thiệu khái quát về tác giả An-phông-xơ Đô-đê- Giới thiệu về văn bản “Buổi học cuối cùng” bối cảnh của truyện, tóm tắt truyện, khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật…2. Thân Quang cảnh trên đường đến trường và ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng- Tâm trạng của Phrăng trước buổi học thoáng ý nghĩ trốn học và rong chơi ngoài đồng nội nhưng cưỡng lại được và sau đó chú bé ba chân bốn cẳng chạy đến trường- Quang cảnh đường phố Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị - nơi luôn lan ra những tin chẳng lànhNhững cuộc thất trậnNhững vụ trưng thuNhững mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức...- Quang cảnh trường học khác hẳn với thường ngày Trường học yên tĩnh, bình lặng y như 1 buổi sáng chủ nhật khác hẳn thường ngày luôn ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố vớiTiếng ngăn bàn đóng mởTiếng mọi người đồng thanh nhắc lại rất to các bài họcTiếng thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn- Thầy giáo Ha-men với thái độ, hành động khác hẳn với thường ngàyNói thật nhẹ nhàng khi Phrăng đến muộn trước đây khi học sinh đến muộn thầy sẽ rất giận dữ nên khi bước vào Phrăng đã đỏ mặt tía tai vì sợ hãiThầy mặc chiếc ao đơ-ranh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu - trang phục trang trọng chỉ được mặc vào dịp đặc biệt - nhưng lại mặc vào một buổi học bình thường như thế này- Những khách đến tham gia buổi học bất ngờ, kì lạ không báo trước trên những hàng ghế trống cuối lớp Cụ già Hô-de trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mépBác phát thu trước đâyCùng nhiều người dân làng khác→ Tất cả đều có vẻ buồn rầu⇒ Tất cả những hình ảnh khác thường ấy khiến cho Phrăng vô cùng ngạc nhiên, khó hiểu⇒ Đồng thời không khí tĩnh lặng, trang nghiêm khác thường của buổi học hôm ấy chính là dấu hiệu, điềm báo cho một cuộc khủng hoảng - sự tĩnh lặng trước cơn Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi ngườia. Cậu bé Phrăng- Khi biết được đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùngChoáng váng đến sững sờ khi nghe thầy thông báoTự giận mình vì những lần trốn học đi chơiNhìn những cuốn sách tiếng Pháp như những người bạn cố trí nay phải đau lòng giã từ dù trước đây thấy thật nặng nề, chán ngánNuối tiếc, nhớ thương người thầy sẽ không còn được gặp nữaCảm thấy tội nghiệp người thầy đã từng chán ghét, sợ hãi- Khi học buổi học cuối cùng Chăm chú lắng nghe những điều thầy nói và thấy chúng thật dễ dàng → Cảm thấy chưa bao giờ mình chăm chú lắng nghe đến như thếCảm thấy kính yêu thầy, yêu thương thầy hơnTự nhủ sẽ luôn nhớ mãi buổi học tiếng Pháp cuối cùng này→ Trong buổi học cuối cùng này Phrăng đã cảm nhận được cái hay, ý nghĩa của tiếng Pháp - tiếng mẹ đẻ của mình và tình cảm thầy trò thiêng liêng.→ Chính vì thế mà Phrăng luôn cảm thấy nuối tiếc, cụm từ "giá như" được lặp lại nhiều lần, thể hiện sự tiếc nuối vô cùng tận của cậu đối với những ngày tháng đã qua, và với cả tiếng Phápb. Thầy Ha-men- Thái độ với học sinh khác hẳn với thường ngàyKhông giận dữ hay trách phạt khi Phrăng không đọc được bài mà chỉ dịu dàng nhắc nhở emNói rất nhiều những lời hay dành cho tiếng Pháp - đây là thứ ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhấtChưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải từng chữ đến như hôm nay, như muốn truyền hết toàn bộ tri thức của mình ngay lập tức cho học sinhĐứng lặng im trên bục giảng, đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình- Những quan niệm, tư tưởng của thầyCảm thấy ai cũng đáng tự chê trách khi nghĩ rằng còn khối thì giờ để học, và giờ đây không còn cơ hội nữaSẽ thật xấu hổ khi một người dân xứ An-dát lại không biết viết, biết đọc tiếng PhápPhải luôn giữ lấy tiếng Pháp và không được lãng quên nó, bởi khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chỉ cần vẫn còn giữ vững tiếng nói của dân tộc thì giống như được nắm chìa khóa chốn lao tù→ Người thầy khẳng định sức mạnh và ý nghĩa to lớn của tiếng nói dân tộc - tiếng Pháp→ Cùng niềm mong mỏi ở các em học sinh hãy giữu gìn, trân trọng và truyền lưu tiếng Các nhân vật khác- Cụ Hô-de Mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép và cặp kính lớn đặt trên trang sáchKhi đọc sách, cụ nâng cuốn sách bằng hai tayCụ đọc rất chăm chú, đánh vần từng chữ như bọn trẻ, giọng đọc run run vì xúc động, rất kì cục→ Những chi tiết đó thể hiện sự nâng niu, quý trọng của cụ Hô-de đối với tiếng Pháp cùng với đó là sự đau khổ khôn kể khi từ đây tiếng Pháp không còn được học, được viết ở xứ An-dát Các em học sinhHết sức chăm chú và im phăng phắc trong giờ họcKhông để ý đến cảnh vật xung quanh, kể cả những trò nhỏ nhất, tất cả đều cặm cụi viếtTất cả vừa muốn cười nhưng cũng muốn khóc→ Cũng như Phrăng, các em học sinh ai cũng trân quý những giây phút học tiếng Pháp cuối cùng này. Các em tập trung hết sức, như muốn níu kéo từng giây phút cuối cùng của buổi Cảnh kết thúc buổi học- Âm thanh Tiếng chuông nhà thờ điểm mười hai giờTiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về→ Những âm thanh tuyên bố chấm dứt buổi học tiếng Pháp cuối cùng - từ bây giờ tiếng Đức sẽ thay thế cho tiếng Pháp được học ở Hình ảnh trong lớp họcThầy Ha-men đứng dậy trên bục giảng, mặt tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câuThầy khuyên mọi người hãy yêu nước và giữ gìn tiếng nói của dân tộcCầm một viên phấn, dằn mạnh hết sức, viết thật to dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”→ Thầy ha-men là người có tấm lòng yêu nước và ý thức giữ gìn tiếng nói của dân Hình ảnh kết thúc văn bản thầy Ha-men đứng tựa vào tường, không nói gì mà chỉ ra hiệu cho học sinh rời khỏi lớp→ Thể hiện sự đau xót đến không thể đứng vững, không thể nói được thành lời của người thầy giáo trước giây phút chia xa này→ Đồng thời thể hiện nỗi đau của một người dân xứ An-dát khi từ đây không còn được dạy và học tiếng Pháp nữa.→ Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc của thầy Ha-men nói riêng và người dân nước Pháp nói Kết bài- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bảnNội dung truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”Nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôi kể thứ nhất,..- Bài học cho bản thân yêu nước, giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt,…................................Trên đây, VnDoc đã gửi tới các bạn Lý thuyết Văn 7 Buổi học cuối cùng - Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm. Hy vọng thông qua tài liệu này, các em sẽ nắm được những thông tin cơ bản về tác giả, tác phẩm, cũng như nội dung truyện Buổi học cuối cùng, từ đó dễ dàng vận dụng để triển khai các đề văn liên quan tới tác phẩm Buổi học cuối cùng. Chúc các em học tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu học tập lớp 7 khác như Soạn văn 7, Văn mẫu lớp 7, Khoa học tự nhiên 7... được biên soạn và cập nhật liên tục trên bài liên quan đến tác phẩmEm hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện Buổi học cuối cùng. Tả lại hình ảnh người thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùngTóm tắt truyện Buổi học cuối cùng của tác giả An-phông-xơ Đô-đêSoạn bài Buổi học cuối cùng Cánh diều Sáng nay tôi đi học muộn và rất sợ một trận quở mắng. Thầy Hamel nói rằng sẽ kiểm tra chúng tôi về phân từ mà tôi thì chưa biết một chữ nào cả. Tôi định trốn học và chơi cả ngày ở ngoài trời. Hôm nay trời ấm và quang đãng. Chim hót líu lo bên bìa rừng, và quân Phổ đang tập luyện trong cánh đồng sau xưởng cưa. Những thứ này thực sự hấp dẫn hơn quy tắc về phân từ, nhưng tôi vẫn có đủ sức mạnh để kháng cự và chạy vội đến trường. Khi tôi đi ngang qua toà thị chính, một đám đông đang tụ tập trước bảng thông báo. Suốt hai năm qua chúng tôi đã đón nhận toàn tin xấu tại đây những cuộc chiến bại, những cuộc tuyển lính, những lệnh của sỹ quan chỉ huy. Tôi tự nhủ, vẫn không dừng lại - Còn gì có thể xảy ra bây giờ được nữa ? Khi tôi chạy nhanh hết sức lực, bác thợ rèn Wachter đang đứng đó đọc bảng tin cùng với người thợ học việc, gọi với theo tôi - Này nhóc, chạy nhanh làm gì, kiểu gì thì cháu cũng đến trường sớm thôi. Tôi nghĩ bác ấy giễu tôi, và chạy bở hơi tai đến tận chiếc vườn nhỏ của thầy Hamel. Bình thường thì từ phố có thể nghe thấy tiếng huyên náo ở đây mỗi khi vào học, tiếng đóng mở bàn, tiếng học sinh đồng thanh đọc bài trong khi tay bịt tai để hiểu bài hơn, và tiếng thày giáo gõ thước trên bàn. Nhưng nay sao yên tĩnh quá ! Tôi đã định đến chỗ ngồi trống không để thầy giáo thấy, nhưng hôm nay mọi thứ đều yên ắng như sáng chủ nhật vậy. Qua cửa sổ tôi thấy bạn bè đã vào chỗ ngồi, và thầy Hamel đi lên đi xuống, tay cầm chiếc thước sắt đáng sợ. Tôi phải mở cửa và đi vào trước mặt mọi người. Bạn có thể tưởng tượng tôi ngượng chín mặt và sợ hãi như thế nào. Nhưng không có gì xảy ra cả. Thầy Hamel thấy tôi và ân cần bảo tôi - Vào chỗ nhanh lên. Cả lớp đã bắt đầu mà chưa có mặt em. Tôi trèo qua ghế và ngồi vào bàn. Đến khi đó, khi đã bớt sợ, tôi mới nhận thấy thầy giáo đang mặc chiếc áo khoác xanh, chiếc áo sơ mi xếp nếp, đội chiếc mũ thêu bằng lụa đen mà thầy không bao giờ mặc trừ những ngày thanh tra và những ngày trao giải thưởng. Ngoài ra trường hôm nay trông thật lạ và trang trọng. Nhưng điều ngạc nhiên nhất đối với tôi là, trên những chiếc ghế đen trước đây luôn luôn trống vắng, nhiều dân làng đang ngồi và cũng yên lặng như chúng tôi; ông già Hauser với chiếc mũ ba góc, ông thị trưởng, bác đưa thư, và vài người khác. Mọi người trông có vẻ buồn bã, ông Hauser mang theo một quyển sách vỡ lòng cũ kỹ, mép đã nhàu nát, ông mở rộng sách trên đầu gối và đặt đôi kính ngang trang sách. Khi tôi phân vân chưa rõ mọi chuyện thì thầy Hamel ngồi lên ghế, và vẫn với giọng nghiêm nghị, hiền lành như mọi ngày, thầy nói - Các em thân mến, đây là bài học cuối cùng mà thầy dạy các em. Lệnh mới đến từ Berlin chỉ cho phép dạy tiếng Đức trong các trường ở Alsace và Lorraine. Thầy giáo mới sẽ đến đây ngày mai. Đây là bài học tiếng Pháp cuối cùng của các em. Thầy mong các em sẽ chăm chú. Những lời này như làm tôi thấy như bị sét đánh! Những người tội nghiệp, đó chính là những gì người ta đã yết thị tại toà thị chính! Bài học tiếng Pháp cuối cùng của tôi! Tại sao, khi hầu như tôi không biết viết! Tôi sẽ không bao giờ được học thêm gì nữa. Thế là phải dừng lại ở đây thôi sao! Ôi, thật ân hận vì những lần không học bài đi tìm trứng chim hoặc đi trượt tuyết! Đống sách của tôi, mà vừa một lát trước đây tôi còn thấy thật phiền nhiễu, thật khó để mang vác, rồi ngữ pháp, rồi câu chuyện về các thánh, nay trở thành những người bạn cũ mà tôi không thể từ bỏ được. Cả thầy Hamel nữa, cái ý nghĩ rằng thầy sắp đi xa, rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp thầy nữa, làm tôi quên hết tất cả về chiếc thước và tính cáu kỉnh của thầy. Thật tội nghiệp thầy! Thầy đã diện bộ quần áo đẹp chủ nhật để dạy buổi học cuối cùng này, và tôi đã hiểu tại sao những người già trong làng lại đến đây ngồi, ở cuối căn phòng. Bởi vì họ cũng thấy buồn không được đến ngôi trường này nữa. Đó là cách họ cảm ơn vị thầy giáo đã phục vụ tận tuỵ suốt bốn mươi năm qua, và để tỏ lòng tôn kính với đất nước nay đã không còn là của họ. Khi đang suy nghĩ về những điều này, tôi thấy mình bị gọi tên. Đến lượt tôi phải đọc thuộc lòng. Làm sao tôi có thể đọc đến hết cái quy tắc đáng sợ về phân từ ấy, rõ ràng, dõng dạc mà không phạm lỗi ? Tôi rối trí ngay từ những từ đầu tiên và đứng đó, tay nắm chặt bàn, tim đập thình thịch, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Hamel nói - Thầy sẽ không mắng em đâu. Em bị phạt thế đủ rồi. Ngày nào chúng ta cũng tự nhủ mình còn nhiều thời gian lắm, mai hãy học. Và em thấy cái gì đã đến rồi đấy. Đó là bất hạnh của vùng Alsace, vốn luôn hoãn việc học hành lại ngày mai. Và người ta có quyền nói Gớm, các ông giả vờ làm người Pháp nhưng lại chẳng biết đọc cũng không biết viết ngôn ngữ của các ông. Nhưng dù sao, tội nghiệp, không phải em là người có lỗi nhất. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều đáng trách. - Cha mẹ các em đã không quá lo lắng về chuyện học hành của các em. Họ thích các em làm việc ở nông trại hoặc nhà máy, như vậy có thể thêm được chút tiền. Còn thầy ư ? Thầy cũng đáng trách. Có phải thầy đã thường xuyên bắt các em tưới hoa thay vì dạy học không ? Khi thầy muốn đi câu cá, có phải thầy đã không ngại ngần cho các em nghỉ học không ? Rồi từ chuyện này sang chuyện khác, thầy Hamel tiếp tục nói chuyện về tiếng Pháp, rằng đó là ngôn ngữ đẹp nhất, rõ ràng nhất, logic nhất trên thế giới, rằng chúng tôi phải giữ gìn và không được quên nó, vì khi một dân tộc bị nô dịch, chừng nào họ còn giữ được tiếng nói là họ còn giữ được chiếc chìa khoá thoát khỏi ngục tù. Rồi thầy mở sách ngữ pháp và giảng bài. Tôi thấy rất ngạc nhiên vì mình hoàn toàn hiểu bài. Những gì thầy giảng thật dễ hiểu làm sao! Tôi nhận thấy mình chưa bao giờ nghe giảng chăm chú như vậy, và cũng chưa bao giờ thầy giảng nhiệt tình như thế. Có vẻ như người thầy tội nghiệp muốn truyền cho chúng tôi tất cả những gì thầy biết trước khi ra đi, và muốn đặt hết vào đầu chúng tôi chỉ trong chốc lát. Sau bài học ngữ pháp, chúng tôi học viết. Hôm ấy thầy Hamel đã chuẩn bị cho chúng tôi những bản mẫu mới, trên đó có những chữ tròn trịa France, Alsace, France, Alsace. Chúng trông như những lá cờ nhỏ phấp phới trong lớp học, treo trên những thanh trên bàn học của chúng tôi. Phải thấy là mọi người đều làm việc chăm chú! Và yên lặng là sao! Chỉ nghe thấy tiếng bút viết cọt kẹt trên giấy. Có lúc có mấy con bọ bay vào, nhưng không ai để ý đến chúng, kể cả những cậu nhỏ nhất đang chăm chú vạch những nét ngoằn ngoèo như thể đó là tiếng Pháp vậy. Trên mái nhà bọn bồ câu khẽ cúc cu, và tôi tự nhủ - Liệu họ có bắt cả những con bồ câu phải gáy bằng tiếng Đức không ? Khi nào tôi ngẩng đầu lên khỏi trang vở cũng thấy thầy Hamel ngồi bất động trên ghế, đăm chiêu nhìn những thứ xung quanh, như thể thầy muốn khắc sâu vào đầu hình ảnh mọi vật trong cái phòng học bé nhỏ này. Thử nghĩ xem, suốt bốn mươi năm qua thầy đã ở chỗ này, với chiếc vườn ngoài cửa sổ và lớp học trước mặt, y như bây giờ. Chỉ có bàn ghế bị mòn đi cùng năm tháng, những cây óc chó trong vườn đã cao hơn, cây hoa bia mà thầy tự tay trồng đã chăng hoa quanh cửa sổ lên đến tận ngói. Hẳn thầy đau lòng biết bao khi bỏ lại tất cả những thứ này, khi nghe tiếng em gái thầy đi lại ở căn phòng phía trên gói ghém hành lý! Vì họ phải đi khỏi đây mãi mãi vào ngày mai. Dù vậy thầy vẫn có đủ can đảm để giảng tới tận bài cuối cùng. Sau giờ học viết chúng tôi học Lịch sử, và sau đó những em nhỏ hát ba, be, bi, bo, bu. Dưới kia, cuối lớp học, ông già Hauser đã đeo kính vào, hai tay cầm cuốn sách vỡ lòng, cũng đang đánh vần cùng với chúng tôi. Ông ấy cũng đang khóc, giọng run run vì xúc động. Nghe giọng ông ấy buồn cười quá mà chúng tôi vừa muốn cười vừa muốn khóc. Tôi sẽ nhớ mãi bài học cuối cùng này! Bỗng nhiên đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ. Cùng lúc tiếng kèn trumpet của quân Phổ trở về sau cuộc tập luyện vọng lên dưới cửa sổ. Thầy Hamel đứng dậy, nhợt nhạt. Tôi chưa bao giờ thấy thầy cao như thế. "Các bạn của tôi," thầy nói, "tôi… tôi…" nhưng một thứ gì đó đã làm thầy nghẹn lại, không nói tiếp được nữa. Thầy quay lại bảng, lấy một mẩu phấn, tì bằng hết sức lực và viết thật to Vive la France’[1] Rồi thầy đứng đó, đầu tựa vào tường, tay ra hiệu cho chúng tôi, không nói một lời - Hết giờ rồi, mọi người về thôi. Còn buổi họp cuối cùng này thôiMai chúng ta giã biệt người ơi !Tâm sự đi những gì chưa nóiCâu ca này và tiếng thơ ngâmMình mang một nỗi buồn xa chúc nhau những lời gì đâyMai cánh chim nhỏ dại tìm điAnh về nơi cuối trời thương nhớRiêng tôi ngược về chốn kinh đôAi gieo chi nỗi buồn đầu thơ ?[ĐK]Ve kêu gọi hè sangPhượng về khơi niềm nhớGiây phút chia tay là cho ai bài thơLưu bút thư sinh mình ghiChiếc hình kỷ niệm hôm vẫn rơi xác phượng tả tơiNghe tiếng ve, réo gọi hồn tôiThôi cạn ly giã từ nhau nhéMai cho dù mình có xa nhauPhút giây này nhớ vạn ngày sau. Lý thuyết Ngữ Văn 7Lý thuyết Ngữ văn 7 Buổi học cuối cùng được VnDoc tổng hợp và giới thiệu nhằm giúp cho các bạn học sinh nắm được những kiến thức cơ bản về truyện Buổi học cuối cùng như tác giả, tác phẩm. Kèm theo đó là bài tập minh họa và bài tập trắc nghiệm về truyện Buổi học cuối cùng giúp các em vận dụng lý thuyết vào trả lời câu hỏi nhanh chóng và dễ dàng hơn. Sau đây mời các bạn tham khảo chi ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết1 Tìm hiểu chung truyện Buổi học cuối cùnga/ Tác giả- An-phông-xơ Đô-đê 1840 - 1897- Nhà văn hiện thực lỗi lạc của nước Pháp nửa cuối thế kỉ Tác giả của nhiều tập truyện nổi Văn chương của ông nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả cảm động những nỗi đau và tình thương, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất Là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng "Một thời niên thiếu", "Những cuộc phiêu lưu kỳ diệu của Tactaranh ở Taraxcông"...b/ Tác phẩm- Bối cảnh+ Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871, nước Pháp thua trận, phải cắt vùng Andát và Loren 2 vùng tiếp giáp với Phổ cho Phổ Đức+ Các trường ở đây bị buộc phải học tiếng Nhan đề+ Tác phẩm phần nào hé lộ cho độc giả biết nội dung chính của tác phẩm.+ Đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng của người dân Pháp→ Chính vì thế mà xuyên suốt tác phẩm là những tâm sự của người dân vốn là xứ sở của loại rượu vang nổi tiếng Thể loại Truyện ngắn- Phương thức biểu đạt- Tự sự- Kể kết hợp với miêu dung Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng tắtNhư thường lệ, buổi sáng hôm ấy cậu bé Phrăng đến lớp học, trên đường đi cậu thấy có rất nhiều sự khác lạ so với mọi hôm, cả khi vào trường cũng vậy, sân trường bỗng dưng yên ắng như một ngày chủ vào lớp cậu càng ngạc nhiên hơn vì thấy mọi người im phăng phắc, thầy Ha-men ăn mặc rất trang trọng, trong lớp lại còn có cả các cụ già cùng đến học. Qua lời nói xúc động của thầy giáo, cậu mới hiểu rằng hôm nay là buổi học cuối cùng bằng tiếng vô cùng ân hận vì sự ham chơi trước đây của mình, xấu hổ vì mình đã không đọc được bài như mong muốn. Thầy Ha-men nói về vẻ đẹp của tiếng Pháp về sự quý giá của tiếng nói dân tộc, ai nấy đều xúc động thiêng liêng... Cuối buổi học thầy giáo Ha-men viêt lên bảng dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”.Các bạn độc giả có thể tham khảo thêm bài Tóm tắt bài Buổi học cuối cùngBố cục Chia làm 3 phần+ Phần 1. Từ đầu ..."vắng mặt con" Trước khi diễn ra buổi học cuối cùng.+ Phần 2. Tiếp theo..."cuối cùng này" Diễn biến buổi học cuối cùng.+ Phần 3. Còn lại Cảnh kết thúc buổi học cuối Đọc - hiểu văn bản Buổi học cuối cùnga/ Nhân vật Phrăng* Quang cảnh hôm diễn ra buổi học cuối cùng- Trên đường đến trường nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị.→ Khác lạ- Ở trường+ Mọi sự bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật.+ Lớp học trang trọng, thầy Ha-men dịu dàng, mặc đẹp hơn mọi ngày, mọi người trong làng đều đi học với vẻ buồn rầu. → Yên tĩnh, trang nghiêm, khác thường.⇒ Phrăng ngạc nhiên, dường như báo hiệu một cái gì nghiêm trọng, khác thường.* Diễn biến tâm trạng của Phrăng- Thái độ đối với việc học tiếng Pháp- Định trốn học và rong chơi ngoài đồng Cưỡng lại được, vội vã đến trường- Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của Xấu hổ và tự giận mình không chịu học các qui tắc phân Chăm chú nghe giảng, kinh ngạc thấy mình hiểu bài đến thế.→ Từ lơ là đến thiết tha, lo lắng cho việc học.* Thái độ với thầy Ha-men- Lẻn vào chỗ ngồi, đỏ mặt tía tai khi thấy thầy cầm Nhận ra giọng nói của thầy thật dịu Thấy tội nghiệp cho thầy- Hiểu được lời khuyên của thầy- Chưa bao giờ thấy thầy lớn lao đến thế.→ Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí sâu sắc⇒ Từ sợ hãi, thân thiết, quý trọng thầy.⇒ Phrăng là cậu bé hồn nhiên, chân thật, biết lẽ phải, yêu tiếng nói dân tộc, quý trọng và biết ơn Thầy giáo Ha-men* Trang phục- Mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục- Đội mũ bằng lụa đen thêu→ Trang phục rất trang trọng mà thầy chỉ mặc vào những ngày đại lễ thể hiện ý nghĩa vô cùng quan trọng của buổi học cuối cùng.* Thái độ đối với học sinh- Rất mực ân cần, dịu dàng tha thiết, không quở trách như mọi ngày khi Phrăng đến muộn- Nhiệt tình truyền giảng bài học bằng cả tâm huyết của mình→ Thầy muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay toàn bộ tri thức vào học sinh trước khi ra đi.* Những lời nói về việc học tiếng Pháp- Tâm niệm của Thầy “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá ở chốn lao tù”→ Giữ được tiếng nói tức là giữ được linh hồn của dân tộc, không để kẻ địch đồng hoá, đó là vũ khí tốt nhất khi chưa thể đánh đuổi quân thù.* Hành động, cử chỉ lúc buổi học kết thúc- Người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói nên câu- Thầy dường như kiệt sức→ Bao nhiêu tinh lực, tâm huyết thầy đã dồn hết cho buổi học cuối Khuyên mọi người hãy yêu quý, giữ gìn ngôn ngữ của dân tộc→ Ca ngợi sự giàu đẹp của dân Dằn mạnh và cố viết thật to dòng chữ "NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM".- Đứng im, đầu dựa vào tường→ Thể hiện sự đau đớn dữ dội về tinh thần.⇒ Thầy đã thắp lên ngọn lửa yêu nước cháy bừng trong tim mọi người* Tổng kếtNghệ thuật- Lựa chọn nhân vật kể chuyện hợp lí Người kể ở ngôi thứ nhất là một cậu Cách kể chân thực vì cậu là người trong cuộc - chứng kiến một cách đầy đủ buổi học cuối Nghệ thuật khắc hoạ chân dung nhân vật cả ngoại hình lẫn nội tâm đều chính xác, tinh Miêu tả nhân vật qua ý nghĩ, tâm Giọng kể tự nhiên, linh hoạt, ngôn ngữ vừa chính xác vừa mang tính biểu cảm dung Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng, Phrăng hiện lên là một chú bé hiếu động, thông minh, nhạy cảm, có tình yêu chân thành với người thầy, yêu nước sâu Bài tập minh họa bài Buổi học cuối cùngĐề bài 1 Phân tích bài "Buổi học cuối cùng" của An-phông-xơ Đô-đê1/ Mở bài- Đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở 1 lớp tiểu học thuộc vùng An-Dát và Lo-ren giáp với biên giới nước Phổ-tức nước Đức.- Từ ngày mai, các trường sẽ phải dạy bằng tiếng Đức, ngôn ngữ của quân xâm Buổi học cuối cùng diễn ra trong không khí trang nghiêm và xúc Thân bài* Hai nhân vật chính của truyệna/ Chú bé Phrăng- Vì không thuộc bài nên lúc đầu chú định trốn học, sau đó lại đến Chú ngạc nhiên vì không khí yên ắng khác thường của lớp Choáng váng khi nghe thầy giáo tuyên bố đây là buổi học cuối cùng bằng tiếng Tự giận mình vì thói ham chơi, lười học...- Thấm thía lời dạy của thầy, chăm chú nghe thầy giảng Cảm động trước hình ảnh lớn lao, cao đẹp của thầy Thầy Ha-men- Thái độ của thầy dịu dàng khác hẳn ngày thường .- Thầy lên lớp với bộ y phục đặc biệt chỉ dành cho những dịp long Thầy ca ngợi tiếng Pháp và tôn vinh Tổ quốc của Tâm trạng thầy hết sức xúc động thể hiện qua giọng nói thiết tha, nghẹn ngào và hành động bất Kết bài - "Buổi học cuối cùng" là một tác phẩm hay, phản ánh niềm tự hào về tiếng Pháp và lòng yêu nước thiết tha của người dân nước Hình ảnh chú bé Phrang và thầy giáo Ha-men được tác giả miêu tả rất thành công, để lại ấn tượng trong lòng người Trắc nghiệm bài Buổi học cuối cùngCâu 1 An -Phông xơ Đô đê là nhà văn nước nào? ÝC. PhápD. 2 Câu chuyện xảy ra trong khoảng thời gian nào?A. Chiến tranh thế giới chiến thứ nhất 1914- 1918B. Chiến tranh thế giới thứ hai 1939- 1945C. Chiến tranh chống đế quốc Mĩ cuối thế kỉ XXD. Chiến tranh Pháp- Phổ cuối thế kỉ XIXCâu 3 Truyện kể bằng lời nhân vật nào?A. Nhân vật PhrăngB. Thầy Ha -men .C. Cụ già Hô -de .D. Những người dân làngCâu 4 Em hiểu như thế nào về nhan đề " Buổi học cuối cùng"?A. Buổi học cuối cùng của một học Buổi học cuối cùng của một năm Buổi học cuối cùng của môn tiếng Buổi học cuối cùng của cậu bé Phrăng trước khi chuyển đến ngôi trường 5 Chân lí được nêu ra trong truyện Buổi học cuối cùng là gì?A. Tình thầy trò là cao quý nhất, không có gì có thể thay đổi được thứ tình cảm quý báu Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao Nếu một dân tộc mà mọi người dân đều có lòng yêu nước thì dân tộc đó sẽ không bao giờ rơi vào vòng nô Tình yêu quê hương, đất nước phải được thể hiện trước tiên qua tình yêu chữ viết và tiếng 6 Tác giả xây dựng thành công hai nhân vật chính trong truyện Buổi học cuối cùng là nhờ vàoA. Miêu tả ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng của Cho nhân vật tự nói lên suy nghĩ của Tạo ra nhiều chi tiết biểu cảm cho nhân vật thể hiện tình Đề cao giá trị của tiếng Pháp đối với người 7 Ý nào sâu đây không đúng với suy nghĩ, tâm trạng của Phrăng?A - Mải chơi, sợ thầy kiểm tra bài nên muốn trốn - Xấu hổ, ân hận và thấm thía trước lỗi lầm của mình, muốn sửa chữa nhưng đã - Thương và kính yêu - Vui vẻ khi từ nay không phải học tiếng Pháp 8 Bài học rút ra từ câu chuyện của Phrăng?A. Tuổi còn nhỏ chưa vội học, hãy vui chơi cho thoải mái sau này học vẫn kịp Vui chơi thoải mái nhưng không sao nhãng việc học hành để sau này phải ân hận, nuối Học tập không chỉ lấy kiến thức cho mình để sau này có một tương lai tươi sáng mà còn là trách nhiệm của người học sinh đối với gia đình, đối với đất Cả B và C Cả A Và C đúngCâu 9 Giá trị cao cả của truyện Buổi học cuối cùng là gì?A. Thể hiện tinh thần chống chiến tranh xâm Thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là yêu tiếng nói dân Lên án những nhà lãnh đạo nước Pháp trong việc nhượng đất đai cho nước Đề cao tình thầy trò và lòng gắn bó với mái trường thân 10 Đúng nào nói đúng tâm trạng thầy giáo Ha-men trong buổi học cùng?A. Bình tĩnh và tự tinB. Đau đớn và rất xúc độngC. Bình thường như những buổi học khácD. Tức tối, căm phẫnCâu 11 Tâm trạng của chú bé Phrăng diễn ra như thế nào?A. Vô tư, thờ Bình Lúc đầu ham chơi, lười học, ân hận xúc Chán ngán học tiếng 12 Qua những chi tiết miêu tả về trang phục, lời nói, hành động, thái độ... cho ta thấy thầy Ha Men là người như thế nào? Chọn câu trả lời đúng nhấtA. Một người thầy yêu nghề, đầy nhiệt huyếtB. Một người dân yêu nước và sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vê đất nướcC. Một người luôn có ý thức gìn giữ tiếng nói của dân tộcD. Thầy Hamen là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và người yêu nước sâu sắcĐáp án1 - C2 - D3 - A4 - C5 - B6 - A7 - D8 - D9 - B10 - B11 - C12 - D-Trên đây là Lý thuyết Ngữ văn 7 bài Buổi học cuối cùng, hy vọng đây là tài liệu hay giúp các em dễ dàng ghi nhớ kiến thức về hoàn cảnh ra đời, giá trị nghệ thuật và những triết lí được tác giả gửi gắm qua truyện ngắn Buổi học cuối cùng....Ngoài tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm các tài liệu học tập lớp 7 khác như Văn mẫu lớp 7, Toán 7 , Khoa học tự nhiên 7... và các Đề thi học kì 1 lớp 7, Đề thi học kì 2 lớp 7... được biên soạn và cập nhật liên tục trên bài liên quan đến tác phẩmEm hãy tưởng tượng và kể tiếp câu chuyện Buổi học cuối cùng. Tả lại hình ảnh người thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùngTóm tắt truyện Buổi học cuối cùng của tác giả An-phông-xơ Đô-đêSoạn bài Buổi học cuối cùng Cánh diềuBuổi học cuối cùng - Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc. THPT Ngô Thì Nhậm sẽ giới thiệu đôi nét về tác giả An-phông-xơ Đô-đê, nội dung của truyện “Buổi học cuối cùng”, mời bạn đọc tham khảo. Buổi học cuối cùngI. Đôi nét về An-phông-xơ Đô-đêII. Giới thiệu về Buổi học cuối cùng1. Xuất xứ2. Bố cục3. Tóm tắt Nghe đọc truyện Buổi học cuối cùng Bạn đang xem Truyện Buổi học cuối cùng Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-men đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế! Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng Ríp-pe, sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân “Lại có chuyện gì nữa đây?”. Bác phó rèn Oát-stơ đang đọc cáo thị cùng cậu học việc thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo – Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm! Tôi tưởng bác chế nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảng sân nhỏ nhà thầy Ha-men. Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn – Yên một chút nào! Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào! Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng – Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con. Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de, trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa. Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách. Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi – Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý. Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã. Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!… Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!… Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ. Tội nghiệp thầy! Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi… Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi – Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến… Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng “Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!…” Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách. Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?… Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù… Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi. Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng “chữ rông” thật đẹp Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ – Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ? Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy… Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảng sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiểng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi. Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kỳ cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc… Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này! Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế. – Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi… Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”. Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi “Kết thúc rồi… đi đi thôi!”. I. Đôi nét về An-phông-xơ Đô-đê – An-phông-xơ Đô-đê sinh năm 1840, mất năm 1897. – Ông là một nhà văn người Pháp với nhiều tác phẩm nổi tiếng. – Văn chương của ông nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả những nỗi đau hay tình yêu thương quê hương đất nước. – Một số tác phẩm Một thời niên thiếu, Buổi học cuối cùng…. II. Giới thiệu về Buổi học cuối cùng 1. Xuất xứ Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới và Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học bằng tiếng Đức. – Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát. 2. Bố cục Gồm 3 phần – Phần 1. Từ đầu đến “mà vắng mặt con” Quang cảnh trên đường và cảnh trường. – Phần 2. Tiếp theo đến “Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!” Diễn biến của buổi học cuối cùng. – Phần 3. Còn lại. Kết thúc của buổi học cuối cùng. 3. Tóm tắt Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp muộn, ngạc nhiên khi lớp học trở nên yên ắng khác thường. Thầy Ha-men nói với cả lớp đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Buổi học diễn ra thật trang nghiêm từ tiết tập đọc, tập viết rồi tiết Lịch sử. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp. Khi đồng hồ điểm mười hai giờ cũng là lúc buổi học kết thúc. Thầy Ha-men xúc động không nói nên lời. Cuối cùng, thầy cố viết thật to lên bảng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Đăng bởi Trường THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục Xem thêm Truyện Buổi học cuối cùng Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc. THPT Ngô Thì Nhậm sẽ giới thiệu đôi nét về tác giả An-phông-xơ Đô-đê, nội dung của truyện “Buổi học cuối cùng”, mời bạn đọc tham khảo. Buổi học cuối cùng Nghe đọc truyện Buổi học cuối cùng Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-men đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế! Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng Ríp-pe, sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân “Lại có chuyện gì nữa đây?”. Bác phó rèn Oát-stơ đang đọc cáo thị cùng cậu học việc thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo – Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm! Tôi tưởng bác chế nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảng sân nhỏ nhà thầy Ha-men. Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn – Yên một chút nào! Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào! Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng – Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con. Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de, trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa. Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách. Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi – Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý. Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã. Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!… Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư!… Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ. Tội nghiệp thầy! Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi… Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi – Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến… Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng “Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!…” Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách. Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?… Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù… Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi. Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng “chữ rông” thật đẹp Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ – Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ? Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy… Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảng sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiểng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi. Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kỳ cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc… Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này! Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế. – Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi… Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”. Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi “Kết thúc rồi… đi đi thôi!”. I. Đôi nét về An-phông-xơ Đô-đê – An-phông-xơ Đô-đê sinh năm 1840, mất năm 1897. – Ông là một nhà văn người Pháp với nhiều tác phẩm nổi tiếng. – Văn chương của ông nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả những nỗi đau hay tình yêu thương quê hương đất nước. – Một số tác phẩm Một thời niên thiếu, Buổi học cuối cùng…. II. Giới thiệu về Buổi học cuối cùng 1. Xuất xứ Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới và Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học bằng tiếng Đức. – Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát. 2. Bố cục Gồm 3 phần – Phần 1. Từ đầu đến “mà vắng mặt con” Quang cảnh trên đường và cảnh trường. – Phần 2. Tiếp theo đến “Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!” Diễn biến của buổi học cuối cùng. – Phần 3. Còn lại. Kết thúc của buổi học cuối cùng. 3. Tóm tắt Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp muộn, ngạc nhiên khi lớp học trở nên yên ắng khác thường. Thầy Ha-men nói với cả lớp đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Buổi học diễn ra thật trang nghiêm từ tiết tập đọc, tập viết rồi tiết Lịch sử. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp. Khi đồng hồ điểm mười hai giờ cũng là lúc buổi học kết thúc. Thầy Ha-men xúc động không nói nên lời. Cuối cùng, thầy cố viết thật to lên bảng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.

còn buổi học cuối cùng này thôi