dịch học tinh hoa
Chất đó có thể tan, ít tan hoặc không tan. Bảng tính tan hóa học chuẩn sẽ biểu diễn trạng thái tan hay không tan của một chất ở nhiệt độ 25,15 °C (hoặc 293.15 °K) dưới áp suất là 1 atm. 2. Bảng Tính Tan Của Các Axit - Bazơ - Muối trong nước. Trong đó: t : hợp chất tan
DỊCH VỤ CÔNG ; SƠ ĐỒ CỔNG Kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Phan Văn Mãi tại Hội nghị Tổng kết năm học 2021-2022 và Triển khai nhiệm vị năm học 2022-2023 (HCM CityWeb) - Chiều 12/10, Sở Công Thương TPHCM tổ chức họp báo cung cấp thông tin về tình
Ví dụ 1: Tính nồng độ mol của các ion trong các dung dịch sau: a) Dung dịch Fe (NO)3 0,01M b) Dung dịch K2CO3 0,15M c) Dung dịch Al2 (SO4)3 0,2M d) Trong 150ml dung dịch có hoà tan 6,39g Al (NO3)3 e) Dung dịch gồm: Ba (OH)2 0,2M và KCl 0,1M f) Trộn 100ml Ba (OH)2 0,2M với 150ml NaOH 0,1M.
Dịch học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần trình bày những phần cốt lõi và tinh hoa nhất của tác phẩm Chu Dịch, giúp người đọc có hiểu biết căn bản từ thấp tới cao, cũng như những ứng dụng của Chu Dịch vào đời sống hiện đại.Mời bạn đón Xem thêm Thông tin kèm theo Có dịch vụ bọc sách plastic cao cấp cho sách này ( Chi tiết)
Ngoài ra TuClass còn là công cụ hỗ trợ giáo viên trong soạn thảo, chuẩn bị kiến thức, thống kê chất lượng học tập của học sinh và kết nối trực tiếp với phụ huynh nhằm định hướng cho thế hệ trẻ nguồn kiến thức, các kỹ năng cần thiết, góp phần tạo nên nền tảng cho thế hệ trẻ trong tương lại. ỨNG DỤNG ĐA NỀN TẢNG DỄ DÀNG SỬ DỤNG Phiên bản Website
After 2 Months Of Dating What To Expect. Tác giả Nguyễn Duy Cần Định dạng Sách nói / Sách PDFSố trang 294 Lượt xem/nghe 1038 Lượt đọc 455Lượt tải 168 Kích thước MB Tạo lúc Fri, 10/12/2021 1234 Thể loại TRA CỨU THẦN SỐ HỌC Xem Đường Đời, Sự Nghiệp, Tình Duyên, Vận Mệnh, Các Năm Cuộc Đời... Khoa học khám phá bản thân qua các con số - Pythagoras Pitago Mục lục sách nói Hẹn giờ tắt nhạc SÁCH CÙNG TÁC GIẢ … Trong nhiều năm qua, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mác-Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cácn bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển bị hạn chế. … Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời chú trọng nghiên cứu những tinh hoa trí tuệ của dân tộc. Đối với những học thuyết khác - ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin - về xã hội, cần được nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng. … Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, những vấn đề phát huy nhân tố con người, về đạo đức, lối sống, tư tưởng, nghệ thuật, tôn giáo, dân tộc… trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mở rộng giao lưu quốc tế. … Đảng phát huy tự do tư tưởng, tạo mọi điều kiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu và các mặt công tác khác trên lĩnh vực lý luận…. Trích Nghị quyết của Bộ Chính trị ĐCSVN về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay Số 01/NQ-TW 28-3-92Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dịch Học Tinh Hoa PDF của tác giả Nguyễn Duy Cần nếu chưa có điều kiện. Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy. Cám ơn sự hỗ trợ, động viên để duy trì và phát triển website. Mọi đóng góp xin gửi vềNgười nhận Hoàng Nhật MinhSố tài khoản 103873878411Ngân hàng VietinBank CÓ THỂ BẠN CŨNG THÍCH KHOA HỌC TÂM LINH NHẠC CHỮA LÀNH Tử Vi - Phong Thủy Top views Theo Ngày Theo Tuần Theo Tháng 5 - Nhân Tướng Học Hy Trương3 - Kinh Dịch Trọn Bộ Ngô Tất Tố3 - Dịch Kinh Tường Giải Di Cảo - Quyển Thượng Thu Giang3 - Chỉ Số Cá Nhân Theo Nguyên Lý Số Học Pytago Vinskills2 - 36 Kế Nhân Hòa Duy Nghiên2 - Tử Vi Nghiệm Lý Toàn Thư Thiên Lương2 - Tôi Là Thầy Tướng Số - Tập 1 Dịch Chi 5 - Nhân Tướng Học Hy Trương3 - Kinh Dịch Trọn Bộ Ngô Tất Tố3 - Dịch Kinh Tường Giải Di Cảo - Quyển Thượng Thu Giang3 - Chỉ Số Cá Nhân Theo Nguyên Lý Số Học Pytago Vinskills2 - 36 Kế Nhân Hòa Duy Nghiên2 - Tử Vi Nghiệm Lý Toàn Thư Thiên Lương2 - Tôi Là Thầy Tướng Số - Tập 1 Dịch Chi 423 - Nhân Tướng Học Hy Trương198 - Tử Vi Tổng Hợp Nguyễn Phát Lộc197 - Kinh Dịch - Đạo Của Người Quân Tử Nguyễn Hiến Lê183 - Kinh Dịch Trọn Bộ Ngô Tất Tố158 - Tôi Là Thầy Tướng Số - Tập 1 Dịch Chi150 - Tử Vi Nghiệm Lý Toàn Thư Thiên Lương148 - Dịch Kinh Tường Giải Di Cảo - Quyển Thượng Thu Giang SÁCH NÓI - AUDIO BOOKS
Cuốn sách "Dịch học tinh hoa" bản đầy đủ gồm 293 trang của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần được xem là một bộ sách quý. Tuy nhiên Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch mà ông vua thần thoại này xuất hiện cách đây hàng hàng nghìn năm hay hàng vạn năm chưa có gì chứng thực. Chỉ biết rằng trải qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý. Đời nhà Tống, khi viết lời tựa cho việc xuất bản Kinh Dịch, Trình Di đã phải thốt lên "Thánh nhân lo cho đời sau như thế có thể gọi là tột bậc!".Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng "Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi…". Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng tiến là lui, chẳng mặn là nhạt, chẳng nóng là mát, chẳng nhanh là hoạt động của con người, âm dương luôn biến động song vẫn tạo được thế cân bằng nhờ sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không sẽ sinh bệnh. Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là dịch, cái lý của nó là đạo, cái dụng của nó là thần, âm dương khép ngỏ là dịch, một khép một ngỏ là biến. Dương thường thừa, âm thường thiếu, đã không bằng nhau thì sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là thiện ác nhưng cái thời cái cơ của mỗi người mỗi lúc là không giống nhau. Phải hiểu sâu sắc tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội, mới giữ gìn được giangCàng đọc Kinh Dịch tôi càng thấy không thể đọc vội vã như xem tiểu thuyết. Nên đọc dần từng đoạn vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn yên ả, thanh thoát thì đạo lý mới lưu thông, nghĩa tình mới bao quát. Khổng Tử bảo là phải “học Dịch” chứ không phải “đọc Dịch” kể thật chí lý!Nhưng thời gian quá ít, học vấn có hạn nên hấp thụ chưa được bao nhiêu, chỉ thấy lý thú mà viết nên những dòng này, mong nhiều người tìm mua, tìm đọc. Tiếc rằng sách in quá ít 1000 bản giá bán quá cao 60 nghìn đồng,liệu mấy ai mua được đọc được?Xin nêu lên vài điều tâm đắc khi bước đầu họcTrong quẻ Kiền có lời Kinh "Thượng hạ vô thưởng, phi vi tà dã tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã"… lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng…. Trong quẻ Truân có lời Kinh “Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quý hạ tiện, đại đắc dân dã…" tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn nhưng rồi sẽ được dân tin…. Trong quẻ Mông có lời Kinh “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã…"Quẻ Nhu có lời Kinh "Nhu, hữu phu, quang hanh,trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên…" Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng hanh thông chính bền là tốt có lợi cho việc vượt sông lớn…. Quẻ Tụng có lời Kinh"Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã” Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình…Trong thời buổi cái đúng cái sai còn lẫn lộn, người tốt người xấu chưa tường minh, khó chung khóriêng đầy rẫy, nhưng cái gốc của dân mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở, tôi mong sao mỗi người hàng ngày có chút thời gian bình tâm đọc Kinh Dịch, nghe lời người xưa mà ngẫm chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều LINK DOWNLOAD SÁCH TẠI ĐÂY.
Cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần DỊCH HỌCTINH HOA Sách tham khảoNHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 1992DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần … Trong nhiều năm qua, nội dung đào tạo độingũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộmôn khoa học Mác-Lênin, chưa coi trọng việc nghiêncứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựukhoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cácn bộ lýluận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức củaloài người, do đó khả năng phát triển bị hạn chế. … Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệthống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời chú trọngnghiên cứu những tinh hoa trí tuệ của dân tộc. Đối với những học thuyết khác – ngoài chủ nghĩaMác-Lênin – về xã hội, cần được nghiên cứu trênquan điểm khách quan, biện chứng. … Nghiên cứu mối quan hệ giữa truyền thống vàhiện đại, giữa phát huy bản sắc văn hóa dân tộc vớitiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, những vấn đề pháthuy nhân tố con người, về đạo đức, lối sống, tư tưởng,nghệ thuật, tôn giáo, dân tộc… trong điều kiện pháttriển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và mởrộng giao lưu quốc tế. … Đảng phát huy tự do tư tưởng, tạo mọi điềukiện cần thiết cho hoạt động nghiên cứu và các mặtcông tác khác trên lĩnh vực lý luận…. Trích Nghị quyết của Bộ Chính trị ĐCSVN về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay Số 01/NQ-TW 28-3-92 2DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần MỤC LỤCLời nhà xuất bản. ............................................. 6Tựa . ................................................................... 12Lời một người đọc sách. .................................. 13LỜI NÓI ĐẦU. ................................................. 18CHƯƠNG I . ..................................................... 42 - Sách Chu Dịch . ...................................... 43 - Nội dung và tác giả. ............................... 46 - A. Phù hiệu. ............................................ 46 o Thứ tự các quẻ. ............................ 61 o Công dụng các quẻ. ..................... 63 - B. Văn tự . ............................................... 67 o Nội dung và tác giả của Dịch Kinh ....................................................... 67 o Nội dung và tác giả của Dịch truyện ....................................................... 69 o Tác giả của Thập Dực truyện ....................................................... 72 - Các phái của Dịch học . ......................... 76CHƯƠNG II. .................................................... 82 A. Thái cực và Lưỡng nghi. ....................... 83 o Âm trong Dương, Dương trong Âm ................................................................. 93 o Đường lối “Đi về”, “Lên xuống” 95 o Âm Dương không đầu mối. ........ 98 B. Tứ tượng. ................................................ 101 C. Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng . ........ 107 3DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần - Hà Đồ. ..................................................... 113 - Hà Đồ và Ngũ Hành . ............................. 121 - Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái so sánh với Lạc Thư và Hậu thiên Bát quái . .......... 123 - Lạc Thư . ................................................. 131 - Lạc Thư và Hậu thiên Bát Quái . ......... 140CHƯƠNG III . .................................................. 142 - Dịch là gì. ................................................ 143 1. Biến dịch. ........................................... 144 - Lẽ biến hóa . .................................... 147 - Luật tương tướng, tương cầu . ...... 152 - Luật tích tiệm . ................................ 157 - Luật phản phục. ............................. 159 2. Bất dịch . ............................................ 161 3. Giản dị. .............................................. 166 - Phụ chú. .................................................. 173CHƯƠNG IV . .................................................. 178 A. THỜI . ..................................................... 179 B. TRUNG CHÁNH . ................................. 183TẠM KẾT LUẬN . ........................................... 206PHỤ LỤC và PHỤ CHÚ I. Từ Tiên thiên qua Hậu thiên Bát quái . 211 - Thuyết của Bùi Thị Bích Trâm. ........... 216 - Từ Tiên thiên qua Hậu thiên. ............... 222 4DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần II. Sự quan hệ của phương hướng đối với con người . ...................................................... 229Phụ chú - Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm. .......................................................... 234 - Vai trò của khí âm. ................................ 236 - Cảm tưởng các học giả Tây phương đối với Kinh Dịch . .............................................. 239 - Thuyết “thiên nhơn tương hợp của dịch” ................................................................. 241 - Tại sao Âm Dương mà không Dương Âm ................................................................. 253 - “Dịch là nhất nguyên luận” là “các hữu Thái cực”. ........................................................ 255KYBALION . .................................................... 266Phụ chú Chương II - Tứ tượng. ................................................ 271 - Sự chênh lệch của Âm Dương . ............. 272 - Luật Âm Dương. .................................... 274Phụ chú Chương III Dịch là biến. .............. 278 - Dịch và Đạo “Trường xuân bất lão” .... 278Phụ chú 2 chữ TRUNG CHÁNH. ................. 285THUẬT NGỮ KINH DỊCH . .......................... 287Phụ chú Lạc Thư. ........................................... 291 - Các con số trong Dịch . .......................... 292 5DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần LỜI NHÀ XUẤT BẢN Chúng ta tham khảo, tìm hiểu triết học, văn hóaTrung Quốc, Ấn Độ và của các dân tộc phương Đông,để nghiên cứu, nhận thức nghiêm túc văn hóa và bảnsắc của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triểnqua năm lịch sử, đã chọn lọc, tiếp nhận tinhhoa văn hóa của nhiều dân tộc khác nhau, đặc biệt làcác dân tộc láng giềng, nhằm bảo vệ, khẳng định vàphát huy di sản, truyền thống của cha ông để lại, mộtnhiệm vụ trọng đại bức thiết hiện nay của chúng ta,trên bước đường đổi mới, “mở cửa”. Đáp ứng yêucầu này, chúng tôi đã lần lượt giới thiệu nhiều côngtrình sưu tầm, phiên dịch, nghiên cứu công phu củacác cụ Phan Bội Châu, Phan Kế Bính, Ngô Tất Tố,Nguyễn Đăng Thục, Toan Ánh, Tiếp theo chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạnđọc một công trình lớn nữa của Cụ Thu GiangNguyễn Duy Cần Dịch học tinh hoa. Để thay cho lời tựa về lần tái bản bộ sách quýnày, chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc toànvăn bài viết sau đây của Giáo sư Nguyễn Lân Dũng,nhan đề Đầu xuân đọc Kinh Dịch, đăng trên tạp chíKiến thức ngày nay, số 80, ra ngày 15-3-1992 6DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần “Được mấy ngày nghỉ Tết, tôi ngồi đọc say sưacuốn Kinh Dịch do NXB Thành phó Hồ Chí Minhmới cho tái bản 1991. Đọc mãi không hiểu, lại đọc lại, chỉ hiểu thêmchút ít nhưng càng đọc càng thấy khâm phục ngườixưa, khâm phục triết học Đông phương, khâm phục sựuyên bác của dịch giả cừ khôi Ngô Tất Tố 1894-1954. Hóa ra lâu nay ta quá say sưa với triết học Tâyphương mà ít chú ý đến triết học Đông phương. Trongkhi đó người dân thường tuy ít học, ít hiểu biết nhưngphần lớn đều tin tưởng và làm theo không ít những lờidạy của các vị thánh hiền phương Đông. Sự biến động ghê gớm của châu Âu gần đây, sựhưng thịnh một cách đột xuất của không ít quốc giachâu Á làm cho nhân loại không thể không chú ýnhiều hơn đến triết học phương Đông. Văn minh châuÁ trở thành đề tài hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứucủa rất nhiều nước khác nhau. Không phải không có lý khi cụ Phan Bội Châucoi Kinh dịch “là nhân sinh quan và vũ trụ quan củanhân loại”. Cụ cho rằng đúng như tinh thần của KinhDịch “Bình đẳng, đại đồng là chân tính, là hạnh phúccủa nhân sinh”, “tinh thần quy cũ có trật tự đạo đức làlẽ công bình của con người”. Những tư duy củaKhổng học như “không sợ dân nghèo mà chỉ sợ phânchia không đều” Sách Luận ngữ hoặc “tính kế trămnăm không gì bằng trồng người” Sách Hán thư… vềsau đã được Bác Hồ nhắc lại và phát triển thêm. Mô 7DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnhình phát triển của Nhật Bản và của bốn con rồngchâu Á được coi đều là có động lực tinh thần của đạoKhổng. Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng aihay bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầucó Kinh Dịch mà ông vua thần thoại này xuất hiệncách đây hàng hàng nghìn năm hay hàng vạn nămchưa có gì chứng thực. Chỉ biết rằng trải qua hàngnghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổsung, lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trởthành một tác phẩm lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênhmông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì khôngcó, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, vì chỉ đôicâu đã đủ làm thành một đạo lý. Đời nhà Tống, khiviết lời tựa cho việc xuất bản Kinh Dịch, Trình Di đãphải thốt lên “Thánh nhân lo cho đời sau như thế cóthể gọi là tột bậc!”. Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng “Trongkhoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương màthôi…”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng làmềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳngtrên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy,chẳng tiến là lui, chẳng mặn là nhạt, chẳng nóng làmát, chẳng nhanh là chậm. Trong hoạt động của con người, âm dương luônbiến động song vẫn tạo được thế cân bằng nhờ sự tựđiều chỉnh của cơ thể, nếu không sẽ sinh bệnh. Tronghoạt động xã hội, cái thế của nó là dịch, cái lý của nólà đạo, cái dụng của nó là thần, âm dương khép ngỏ là 8DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầndịch, một khép một ngỏ là biến. Dương thường thừa,âm thường thiếu, đã không bằng nhau thì sẽ sinhmuôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ làthiện ác nhưng cái thời cái cơ của mỗi người mỗi lúclà không giống nhau. Phải hiểu sâu sắc tu, tề, trị, bìnhthì mới quản lý được xã hội, mới giữ gìn được giangsơn. Càng đọc Kinh Dịch tôi càng thấy không thể đọcvội vã như xem tiểu thuyết. Nên đọc dần từng đoạnvào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn yên ả, thanh thoát thìđạo lý mới lưu thông, nghĩa tình mới bao quát. KhổngTử bảo là phải “học Dịch” chứ không phải “đọcDịch” kể thật chí lý! Nhưng thời gian quá ít, học vấn có hạn nên hấpthụ chưa được bao nhiêu, chỉ thấy lý thú mà viết nênnhững dòng này, mong nhiều người tìm mua, tìm rằng sách in quá ít 1000 bản giá bán quá cao60 nghìn đồng,liệu mấy ai mua được đọc được? Xin nêu lên vài điều tâm đắc khi bước đầu “họcDịch”. Trong quẻ Kiền có lời Kinh “Thượng hạ vôthưởng, phi vi tà dã tiến thoái vô hằng, phi ly quầndã”… lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiếnlui không nhất định, đừng xa rời quần chúng….Trong quẻ Truân có lời Kinh “Tuy bàn hoàn chỉ hànhchính dã. Di quý hạ tiện, đại đắc dân dã…” tuy giantruân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻhèn nhưng rồi sẽ được dân tin…. Trong quẻ Mông cólời Kinh “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã…” 9DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầndùng phép phạt người để giữ nghiêm pháp luật….Quẻ Nhu có lời Kinh “Nhu, hữu phu, quang hanh,trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên…” Mềm mỏng nếu cólòng tin sẽ sáng láng hanh thông chính bền là tốt cólợi cho việc vượt sông lớn…. Quẻ Tụng có lời Kinh“Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã” Trong thì nghekhông lệch, chính thì xét xử hợp tình… Trong thời buổi cái đúng cái sai còn lẫn lộn,người tốt người xấu chưa tường minh, khó chung khóriêng đầy rẫy, nhưng cái gốc của dân mãi mãi là tốt,đường lối đi lên đã được mở, tôi mong sao mỗi ngườihàng ngày có chút thời gian bình tâm đọc Kinh Dịch,nghe lời người xưa mà ngẫm chuyện ngày nay, nghelời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điềunghĩa. Không hiểu đó có phải là một điều mong ướcquá sức không?” Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh 10DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần HÁN VĂN “Không học Dịch, làm gì rõ được chỗ đầu mốicủa Tạo hóa. Dịch mà thông thì sự lý trong vạn vật tự thông. Chưa từng thấy chưa thông. Dịch lại thông cả cáilý của sự vật.” 11DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần TỰA Tôi dạo chơi phương Nam, tình cờ lại gặp đượcBảo Quang Tử Thu Giang NGUYỄN DUY CẦN tạiviện Khảo cổ Sài Gòn lúc ông vừa soạn xong quyểnDỊCH HỌC TINH HOA. Nhân dịp, tôi có vẽ bức đồCỐC QUANG TRÙNG BÁT QUÁI trao cho ông đểnhờ ông hoằng dương đạo pháp. Tôi không viết sáchcũng không dạy học, nhưng vẫn chủ trương rằng vănhọc, sử học, triết học không thể tách rời nhau ra. Triếthọc và Số học cùng một thể mà khác lối nhìn, cho nêntôi hy vọng Bảo Quang Tử sẽ đảm trách công việc lớnlao này là đứng ra tổ chức một TRIẾT SỐ ĐỒNGTHAM HIỆP HỘI để thích ứng với xu hướng trào lưutập hợp của thời đại. Hoặc có ai hỏi tôi, có thuyết gìsắp ra không? Xin thưa Tôi và Bảo Quang Tử trướcthật giống nhau về đại thể, khác nhau về tiểu tiết màchung quy vẫn đi đến chỗ tương đồng. Bảo Quang Tử thâm sâu triết lý, ngày đêm suycứu không bao giờ chán, hoằng đạo không bao giờmệt mỏi và viết ra bộ sách Tinh Hoa này, dùng ngòibút vào sâu ra cạn mà trực tả được đạo lý huyền diệuđến chỗ “tiềm di mặc hóa” hầu phổ biến đến tận nhângian, công đức thật là vô lượng… Ngày trùng cửu năm Kỷ dậu 1969, Cốc Quang Tử1 làm tựa bài Cốc Quang Tử là một học giả Trung Hoa rất tinh thâm Dịch lý. Tôihân hạnh được ông tặng cho bản thảo một bộ sách của ông đã soạn 12DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần Lời của một người đọc sách Chúng tôi nóng lòng chờ đợi từ lâu quyển DỊCHHỌC TINH HOA của ông Thu Giang Nguyễn DuyCần. Sở dĩ có sự “nóng lòng chờ đợi” là vì vốn biết sựquan trọng của Dịch, đồng thời lại rất muốn được đọcmột quyển sách về Dịch vừa giữ được nguyên vẹntinh túy của một nền học cổ truyền, vừa được trìnhbày một cách rành rẽ giản dị theo phương pháp mới.Ông Thu Giang nhờ có được một nền học cổ mà thấutriệt được các khoa học cổ truyền, lại cũng nhờ sở đắcở nền học mới của Thái Tây mà đạt đến sự dẫn giải vàcách trình bày rất sáng sủa khoa học, như ông đãchứng tỏ trong các quyển Trang Tử Tinh hoa, LãoTử Tinh hoa, Phật học Tinh hoa và Đạo học Tinhhoa của ông trước đây. Sự chờ đợi càng thêm có phần nóng nảy, khichúng tôi phải cố đọc những sách về Dịch đã xuất bảntrước giờ mà chỉ hiểu rất ít một cách lờ mờ, - khi màchúng tôi được nghe các câu chuyện rất đáng kể vềDịch như chuyện có những nhà bác học Trung Hoa vềkhoa nguyên tử nhờ Dịch mà đoạt giải Nobel, -chuyện có những người nước Pháp nước Đức sangViệt sang Tàu để tùm học Dịch, - chuyện có nhữngnhà bách học Tây phương đã áp dụng Dịch vào kỹthuật, và chuyện có cô sinh viên, trong một dòng họchuyên về Tử vi, chỉ nhờ trong một vài giờ nghe ôngxong. Sách ấy có nhan đề CỐC QUANG TỬ SỐ KÝ KHOA HỌCTÂN GIẢI, gồm trên 300 trang đồ họa, viết bằng chữ Hán. 13DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnThu Giang giảng về Kinh Dịch tại giảng đường Đạihọc Văn khoa, bỗng thấu triệt để được tất cả nhữngcái huyền bí về khoa học lý số mà giả sử tự mò mẫmsuốt đời cũng không ra. Sự quan trọng của Dịch ít năm trước đây chỉ làmột cái gì mơ hồ trong đầu óc nhiều người, dù là hạngngười rất ham học. Từ ngày phát sinh ra khoa họcnguyên tử, nhiều căn bản hiểu biết của Đông phươngđược khoa học Tây phương công nhận, cũng như từngày Âu Mỹ nôn nóng nghiên cứu Dịch học, ở nướcnhà mới có những phong trào tìm học những khoa cổtruyền bấy lâu bị liệt vào những khoa “huyền bí dịđoan”, nhưng phần lớn đều bị khựng lại, lý do vì sựkhó đọc, khó hiểu của Kinh Dịch, mặc dù người ta tinrằng Dịch là một cái gì đó căn bản cho mọi sự hiểubiết của loài người. Người ta cũng tin rằng, sau nàyvới phong trào mở rộng, người ta sẽ được hiểu dầndần chút ít. Phải chăng đó chỉ là một kỳ vọng? nếukhông nói là ảo vọng. Như nhiều người, chúng tôi hiểu rằng Dịchkhông phải chỉ là một thứ triết lý suông, mà là căn bảncho tất cả các nền triết học và khoa học Đông bản đó lại không phải vì suy tưởng mà có, vì cáigì do suy tưởng thông thường mà có, mà chắc chắnphải bắt nguồn từ một cuộc hòa đồng và nhập thể cáiTâm của con người vào cái Tâm của Vũ trụ mà ôngThu Giang gọi là “thiên nhơn hợp nhất”, vào thời kỳnguyên thủy, khi mà con người chưa bị lạc hướng vìlối suy luận riêng tư phiến diện nhị nguyên của mình. 14DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnChắc chắn là phải có những con người nguyên thủyđem cái “tâm vũ trụ” của mình ra mới cảm thấy đượccái căn bản siêu hình tối thượng ấy. Lấy chữ Dịch ra mà suy, có người bảo rằng “cógì lạ”! Dịch tức là chuyển biến, là đổi thay, thì ai cũngvậy, nhất là ở Tây phương lại phải thấy rõ và thấuhiểu hơn ai hết. Thế nhưng Dịch lại đâu phải chỉ cónhư thế mà thôi. Dịch còn đạt đến những hiện tượngsiêu việt hơn, giúp cho ta thấy rõ trong cái biến có cáibất biến, và chính cái bất biến chỉ huy cái biến. Nghĩalà trong cái động có cái tịnh, hay nói cách khác, độngtrong cái tịnh và tịnh trong cái động tịnh và độngkhông bao giờ rời nhau. Dịch là tương đối luận, thứtương đối dẫn vào tuyệt đối cả hai là một. Trời Đấtbiến đổi mà có Xuân, Hạ, Thu, Đông, nhưng luật vậnhành không thay đổi, nên nhịp vận hành lúc nào cũngnhư một. Thế rồi, từ chỗ thấu triệt được sự vận hành trongvũ trụ theo nguyên lý duy nhất, con người thấu đượcmuôn ngàn lẽ về nhân sinh, không phải chỉ thích ứngvới vũ trụ để sống, mà còn để hiểu lẽ tuần hoàn củasống chết, áp dụng các luật biến động vào từng việclàm của con người, xét đoán tương lai bắt nguồn vàocác việc trong hiện tại và quá khứ. Với vũ-trụ-quan đặt căn bản trên Dịch, người tamới luận ra các khía cạnh cho một nền nhân sinh hợpnhất với luật vận hành của vũ trụ từ trong nếp sốngcủa cá nhân sống trong xã hội ngoài người, sống trongcái nhịp sống chung của thiên nhiên vạn vật. Cũng 15DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầntrên căn bản của Dịch, người ta mới thấu đạt đượcnhững khía cạnh bí hiểm trong những khoa họcthường gọi là huyền bí như các khoa Y, Bốc, Tinh,Tướng của Đông phương huyền bí. Khi hiểu được ra rằng Âm Dương tuy hai màmột và trong Âm có Dương, trong Dương có Âmcũng như trong họa có phúc, trong phúc có họa, hết Bĩđến Thái, hết thịnh đến suy, Dịch là động mà độngtrong cái tịnh… con người bao giờ mới hiểu ra đượccái chân tướng của sự vật, biết hành động đúng mức,đúng thời, nhất là khi người đó là bực cầm quyền trịnước, lo cho sự tồn vong của dân tộc, hoặc người đóchỉ là một người thường muốn sống ra lẽ sống, mộtngười làm ăn lương thiện, một người vợ, một ngườichồng, một người cha, một người mẹ, một người con,một người anh, một người em… Dịch không phải chỉnêu lên lẽ Âm Dương trong vũ trụ, Dịch còn đem luậtvũ trụ đặt thành đạo sống cho con người. Chỗ cao siêucủa Dịch là thế. Ngày nay, Tây phương đã biết đến Dịch và sùngbái Dịch qua cái nhìn của những nhà triết học, các nhàkhoa học và kỹ thuật, thì người Việt Nam càng nênhiểu biết Dịch từ trong căn bản cổ truyền để khỏi phảivô tình, trong tay đang cầm bó lửa, lại đi xin mồi lửaở các nhà láng giềng. Nhờ đọc DỊCH HỌC TINH HOA của ông ThuGiang mà biết được Dịch, mà hiểu được Dịch, còn gìthích thú bằng mà người viết ra mấy dòng này khôngthể không nói ra. Nhưng hiểu được Dịch đến nơi căn 16DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnbản là một việc, mà biết áp dụng trong các môn họckhác lại là một việc khác, rất khó. Đâu phải ai cũnglàm được điều đó. Chúng tôi chỉ mong ông Thu Giangsẽ còn cho ra tiếp những sách khác về Dịch. Ngoài rachúng tôi cũng mong ông tiếp tục cho ra những sáchnhận xét về lịch sử, xã hội và văn học qua cái nhìn củaDịch lý mà ông đã thực hiện từ lâu trong những tácphẩm về văn hóa và giáo dục của ông trước đây. TRẦN VIỆT SƠN 17DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần LỜI NÓI ĐẦU Kinh Dịch đối với học thuật Trung-Hoa quả làmột “kỳ thư” gồm nắm được tất cả mọi nguyên lý sinhthành và suy hủy của vạn vật. Có người bảo “Dịch,quán quần kinh chi thủ” Dịch là quyển sách đầu nãobao quát tất cả mọi kinh sách của nền văn học, nghệthuật và khoa học của Trung Hoa. Có đúng như vậy. Nhưng đọc Dịch là rất khó. Khó nhất là sự quan trọng của Dịch không phảilà ở “Lời” mà ở “Tượng” và “Số”, không phải ở“Tượng” và “Số” mà là ở “Ý” “Ý tại ngôn ngoại”,như Chu-Hy đã nói trong Dịch thuyết Cương lĩnh“Phục-Hy vạch ra 8 quẻ, tuy chỉ có mấy nét mà baoquát được hết mọi lẽ huyền vi trong Trời Đất. Kẻ họchiểu được Lời thì chỉ hiểu được phần thiển cận, màkhi nào hiểu được phần Tượng mới mong đạt đếnphần tinh thâm diệu nghĩa của nó mà thôi”. Thật vậy,có đọc “Lời” mới đạt đến chỗ “không lời” của sáchDịch. Trình-Di nói “Tiền nhơn vì “Ý” mà truyền“Lời”, kẻ hậu học lại đọc “Lời” mà quên “Ý”; Dịch vìvậy mà thất truyền đã từ lâu.” Dịch là biến. Nghĩa chánh của nó là thế. Mà văntừ lại thuộc về tịnh giới, không làm sao biểu diễnđược cái động cực kỳ mau chóng của Đạo. Bởi vậy,mà chết trong “Lời” là chưa biết đọc Dịch. Dịch kinhlà một thứ kinh vô tự. Hơn nữa, Dịch có nghĩa là biến và biến hai chiềuxuôi ngược, thì với đầu óc nhị nguyên lý trí chỉ suy 18DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnnghĩ có một chiều thuận hay nghịch, không làm gì đọcnổi một câu kinh Dịch2. Thảo nào đã có không biếtbao nhiêu người thú nhận không sao chịu nổi sự mùmờ đầy mâu thuẫn của kinh Dịch, nên đã bị bắt buộcbỏ nó giữa đường, mặc dù thường nghe nói đến danhtiếng của nó. Dịch, vì vậy mà đã bị xem như chỉ làmmột bộ sách bói toán, và ngay thời xưa bên TrungHoa nhờ đã được hiểu như thế nên mới tránh đượcnạn lửa Tần. Đến ngày nay, trong dân gian cũng nhưtrong hàng trí giả, Dịch vẫn còn được hiểu chỉ là mộtbộ sách bói không hơn không kém. Một số người, hiểuđược nhược điểm hiện thời của đa số con người đangsống khoắc khải của một ngày mai mù tịt, để xô vàocon đường bói toán, không phải để tìm hiểu sự thậtmà chỉ để tìm an ủi để sống “cầm hơi” trong nhữngthời nhiễu nhương không tiền khoáng hậu này. Tin“dị đoan” đã thành một nhu cầu tâm lý, cho nênphong trào bói toán đã được lan rộng một cách đánglo ngại. Ôi! Kinh Dịch sẽ bị bọn “thầy bói mu rùa”lợi dụng mà chết, nhưng cũng nhờ bọn họ mà nó cònsống vất vưỡng đến ngày nay! Cái dở hay của nó làđó. Sau đây tôi sẽ bàn qua dụng ý của tiền nhơn đãdùng sách Dịch là sách bói toán. Đó là tôi chưa nóiđến cái tinh thâm linh diệu của một khoa học màngười xưa gọi là khoa học tiên tri tiên giác, cái màLão-Tử đã bảo bất xuất bộ nhi tri thiên hạ! Tôi sẽ2 Tỉ như nói “thăng”, phải hiểu rằng “thăng để mà giáng”. Còn nói“giáng”, phải hiểu rằng “giáng để mà thăng”; danh từ nào cũng chứamâu thuẫn của nó. 19DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnbàn đến nó. Trong một khi khác và một nơi khác,trong quyển “Đạo giáo” sau này. Tôi chỉ xin lưu ýnhững ai chưa từng nghiên cứu đến cái gọi là khoahọc “tiên-tri tiên-giác” mà lại đã vội vàng căn cứ vàokhoa học gán cho nó là “dị đoan” để cho rồi việc,thay vì để tâm nghiên cứu kỹ, nên nghiền ngẫm lạicâu nói này của nhà toánh học đại tài H. Pioncaré“Pháp văn”. Chính là chỗ mà Dịch bảo “Thần dĩ trilai”. Phỏng đoán trước khi chứng minh! Tôi có cầnnhắc lại với quý vị rằng, chính nhờ thế mới có đượcnhững phát minh quan trọng chăng? Theo chúng tôi, Dịch có hai bộ phận hình nhithượng học và hình nhi hạ học. Dịch cũng gồm cả haicái học nhị nguyên và nhất nguyên. Bởi vậy, Dịchchẳng những là một bộ sách triết lý siêu hình vàhuyền nhiệm của Huyền học Trung Hoa, nó cũng làbộ sách triết lý khoa học philosophie de la Sciencecủa bất cứ khoa học nào của Trung Hoa như Y-học,Thiên-văn-học, Địa-lý-học, Toán-học, Số-lý-học, cả những khoa học gọi là “huyền bí” nữa. Ngày nay, có một số nhà bác học Tây phươngkhá đông đã biết khai thác nó, và biết dùng đến khoahọc giải thích nó. Một số người chúng ta đã “reomừng” vì kinh Dịch đã được Tây phương khoa họcchấp nhận và ca tụng. Họ có lý. Nhưng, theo tôi, giátrị thật sự của kinh Dịch đâu phải chỉ ở những gì nóđã được khoa học Tây phương hiện đại chứng nhận,mà chính ở những gì mà khoa học hiện đại của Tâyphương bó tay không khai thác nổi tôi muốn nói đến 20DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầngiá trị huyền nhiệm thiêng liêng của nó nơi tâm linhcon người. Cái mà phần đông các khoa học gia Tâyphương hiện đại khai thác được chỉ dừng ở phần kinhnhị hạ của nó mà thôi. Chỉ một số nhỏ, từ khoanguyên tử học đã mở rộng biên giới hữu hình và vôhình, và có lẽ sau này, kinh Dịch sẽ được phươngpháp nghiên cứu khoa học Tây phương giúp cho nó cómột bộ mặt thiết thực và khoa học, dễ hiểu hơn cho tấtcả mọi người, Dịch sẽ không còn một bộ mặt huyền bínhư xưa nữa. Sự cộng tác chân thành giữa Đông-Tâysau này là nơi đây. Đọc dịch khó, như đã nói trên đây, vì Dịch chẳngnhững chỉ có một nghĩa, mà còn nhiều nghĩa. Dịch làbiến mà cũng là bất biến. Hay nói một cách khác,Dịch là động động trong cái tịnh. Bởi vậy, Triệu-Khang-Tiết mới bảo “Từ chỗ biến mà biết được chỗbất biến, mới có thể bàn tới Dịch”. Thật vậy, ÂmDương là căn bản của mọi cuộc biến động, nhưng ÂmDương lại chẳng phải hai, tuy trong thực tế rõ ràng làhai. Khó là chỗ đó. Âm là tịnh, Dương là “Âm trung hữu Dương căn”; Dương trunghữu Âm căn”3, thì trong Tịnh có gốc Động, trongĐộng có góc Tịnh. Bởi vậy, Lão-Tử mới khuyên ta dèdặt “Họa trung hữu Phúc, Phúc trung hữu Họa”. Luậtnày có thể gọi là luật quan trọng nhất luật “PhảnPhục”. Toàn thể bộ Dịch chỉ nói đi nói lại cái có cáiluật ấy mà thôi. Trong 64 quẻ, không quẻ nào không3 Bác sĩ Jules Régnault khuyến cáo các nhà khoa học Âu Tây ngàynay “ Pháp Văn” 21DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầncó tàng ẩn luật Phản Phục. Thử lấy quẻ Phong Lôi-Hỏa Phong để làm một ví dụ điển hình. Phonglà nói về thời cực thịnh, vậy mà Thoán, Hào, Tượngđều xấu là phần nhiều, lời răn đe lại cũng nhiều. Là vìmầm họa thường núp trong phúc phúc nhỏ, họa nhỏ;phúc to, họa to. Lẽ trong thiên hạ, bất cứ trong trườnghợp nào, cá nhân hay toàn thể, hễ tịnh cực thì cáitriệu suy vong đã nằm sẵn nơi trong rồi. Cũng nhưmặt trời lúc đứng bóng, thế nào cũng sắp xế; mặttrăng lúc tròn đầy, thế nào cũng khuyết lần nhựttrung tắc trắc, nguyệt doanh tắc thực. Phong là thờicực thịnh, vậy phải lo đến cái cơ suy sắp đến. Cho nêngặp thời Phong, tuy đáng mừng mà cũng đáng đáng lo nhất là lúc cực thịnh, nghĩa là khôngphải lo thịnh mà lo “quá thịnh”. Cũng như đắc ý làthường, nhưng đáng lo nhất là lúc “quá đắc ý”4. Hễđược doanh tràn đầythi phải lo hư thiếu hụt sắptới, gặp thời tiêu mòn lần là cũng nên hy vọng thờitức nở ra sắp đến. Sự vật đều như thế, thì việc ngườicũng chẳng khác hơn. Bốn chữ doanh hư tiêu tức tiếpnói nhau như một Âm một Dương “nhất Âm nhấtDương chi vị Đạo”. Bốn chữ này, Thoán truyện chỉ cónói ở quẻ Phong và quả Bác. Ở quẻ Bác , đạo4 Lão-Tử khuyên ta “Công thành phất cư, thị dĩ bất khứ” Hán Vănđể mà trị cái bệnh của quẻ Phong, quẻ Thái. Dịch rất sợ “kháng longhữu hối” là vì “thái cương tắc chiết” và “doanh bất khả cửu” Kiềnquái. Bởi vậy, “Đắc ý thường tư thất ý thời” Hán Văn. Những lúc“đắc ý” nên nghĩ đến những lúc không còn đắc ý nữa. 22DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnngười quân tử đang tiêu hư, nhưng mà đã có cái cơdoanh tức cùng lúc ấy mà sinh ra. “Vật cùng tắcbiến” là luật căn bản của Dịch. Cho nên, ở trong tiêuhư đừng sinh lònh chán nản. Thời Phong, là đến lúctức doanh nhưng mà cũng chính là lúc tiêu hư bắtđầu sinh ra. Tóm lại, thời Bắc tăm tối nhất trong đóđã ngầm chứa “tức doanh”; thời Phong sáng sủanhất bên trong cũng ngầm chứa “tiêu hư”. ĐọcDịch, chỉ cần đọc đến các quẻ Thái, quẻ Bĩ, quẻ Bác,quẻ Phục cũng đủ thấy rõ cái lẽ thịnh suy, trị loạn tuydo lẽ trời mà cũng cốt ở nơi người. Toàn thể bộ Dịchđều như thế có Trời mà cũng có Ta. Trời đây, là luậttự nhiên “thiên nhơn tương ứng”. Dịch lý, vì vậy có đủ kinh đủ quyền, có lúcthường lúc biến… Thánh nhơn học Dịch, theo lời cũmà phát minh được nghĩa mới, nếu cứ bo bo theo sátvăn từ, câu nệ mà chẳng biến thông, không sinh đượcý gì mới cả, sẽ không bao giờ học Dịch nổi. Dịch lànói về lẽ sống. Người câu nệ là kẻ đã chết chết trongquá khứ, chết trong khuôn khổ. “Nhất hồi niêm xuất,nhất hồi xuân” Mỗi lần nói ra, mỗi lần mới. Viết tập sách này, tôi đã nghiên cứu rất nhiềusách vở xưa cũng như nay, sách ngoại quốc cũng nhưsách trong nước. Nhưng có nhiều chỗ, tôi không theosách lại theo ý riêng, có khi lại quên cả sách nữa đểtiêu hóa sách, nhưng bao giờ cũng cố giữ đúng theonhững nguyên tắc căn bản và truyền thống của nhiên khi bác bỏ, bao giờ cũng nên lên lý do. Vìmỗi nhà mỗi có sự giải thích theo sở kiến của mình. 23DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnTheo bản thống kê các sách bàn về Dịch từ đời Chuđến đời Thanh đã có 158 bộ, quyển… Đó chỉ làước lượng. Đọc được tất cả, ta phải điên đầu. Phảilọc lại, và giữ lấy cái phần tinh hoa. Đọc sách mà tinở sách một cách mù quáng, thà đừng đọc sách cònhơn. Dịch là tương đối luận Âm, tự nó đâu phải luônxấu Dương, tự nó đâu phải luôn tốt. Tất xấu, kỳ thậtđều do hai chữ Thời và Vị mà ra. Cũng như không cógì gọi là Thiện, cái gì gọi là Ác một cách tuyệt công dụng của nó, trật tự vũ trụ nhân sinh mà cóchia phần Thiện Ác. Phần căn bản của Dịch là ở điểmnày, mà cũng là điểm cực kỳ quan trọng, vì nó đánhtan được cái thành kiến của nhị nguyên luận chấp“có” hoặc chấp “không”, nói theo danh từ nhà Phật. “Thời”, là thời gian; “Vị”, là không gian. Âmtuy có tánh cách thấp kém, tiêu cực, còn Dương cótánh cách cao quý, tích cực, nhưng trong 6 hào tượngtrưng 6 thời, nếu được “đắc vị”, “đương vị” thì tốt,mà “thất vị” hay “bất đương vị” thì xấu. Toàn 64quẻ, thánh nhơn luận về sự kiết hung đều căn cứ vàohai chữ THỜI và VỊ mà định tốt xấu, chứ tự nó khôngcó cái gì tuyệt đối xấu, cũng không có gì tự nó luônluôn tốt. “Nói về cương nhu, mỗi thứ đều có chỗ thiệnvà bất thiện của nó lúc đương phải dùng cương, thìlấy cương làm thiện. Lúc cần phải dùng nhu, thì lấynhu làm thiện. Chỉ có “trung” và “chánh” mới khôngcó chỗ bất thiện mà thôi. “Hán Văn”. Cương nhu cáchữu thiện, bất thiện. Thời đương dụng cương, tắc dĩ 24DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầncương vi thiện dã. Thời đương dụng nhu, tắc dĩ nhu vithiện dã. Duy “trung” dữ “chánh” tắc vô hữu bấtthiện dã. Nhưng cái gọi là “chánh” không như cáithiện của chữ “trung”, vì được “chánh” chưa ắt được“trung” được “trung” thì không bao giờ không“chánh”. Tỉ như, sáu hào đều được “đắc vị” vị tấtđiều là tốt cả “đắc vị” còn cần phải “đắc trung” .Đạo lý trong thiên hạ tuy có nhiều việc, nếu cho là“chánh” thì vẫn chánh, nhưng lại vì hoặc bất cập,hoặc thái quá mà thành ra “bất trung”. Bởi “bấttrung” nên chở thành “bất chánh”. Ở quẻ Kiền bànđến cái đức của người quân tử gọi là “long đức” cóviết “long đức nhi chánh trung giả dã” … Hán Văn… nghĩa là đức của người quân tử ví như con rồngnếu được “đắc trung” mới được gọi là “long đức”. Vìvậy, Dịch thường để chung hai chữ “chánh trung”. Vấn đề Âm Dương hay Thiện Ác của Dịch là mộtvấn đề vô cùng quan trọng. Thiện đức mà dùng sai,không đúng thời đúng chỗ, không còn thiện nữa. Hơnnữa Thiện hay Ác như Dương hay Âm vẫn cần thiếtcho trật tự vũ trụ, đứng theo đạo Trời thiên đạo.“Thiện Ác giai thiên lý” Hán Văn như Trình-Minh-Đạo đã nói “Âm Dương đồng đẳng và bình hủ Nho không làm gì hiểu nổi. Nhà Đạo học ẤnĐộ Anrobindo Ghose, trong quyển Héraclite, có viết“Trong trật tự chung của đạo, mỗi sự vật đều theocương vị của mình trong guồng máy chung mà hànhđộng; tùy cương vị và để gìn giữ quân bình, sự gì việcgì xảy ra đều tốt, hợp lý, và đẹp đẽ cả chính ngay 25DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầntrong công việc nó thi hành những mạng lệnh tự nhiêncủa Tạo hóa. Ngay như cuộc thế chiến, theo ngườinày thì cho là cuộc tàn bạo, dã nam, khả ố, thế mà đốivới người khác thì đây biết đâu là một việc hay vì nómở đầu cho một sự canh tân đầy triển vọng cho sự bếtắc của xã hội ngày nay. Nhưng đó cũng chỉ là quanniệm tương đối nhị nguyên đang đứng giữa cái Ác vàcái Thiện để lựa chọn một bên nào. Đối với Thiên lýmà nhìn về mặt quát của Thiên cơ, mỗi một hànhđộng nào bất cứ Thiện hay Ác đều là lẽ Trời cả, nênđều được xem là tốt đẹp và hợp lý, dĩ nhiên là đối vớiTRỜI Đạo, chứ không phải đối với trí óc conngười”5. Cũng như “tất cả mọi cuộc đại biến tự nhiênđều là những cần thiết của Tạo hóa để giữ quânbình”6. Có hiểu được cái tương đối luận đặc biệt nàycủa Dịch, ta mới có thể vào được một cách dễ dànghơn thuyết tương đối độc đáo của Trang Châu, mộtthứ tương đối luậndùng để đi thẳng vào tuyệt đốiluận, chứ không phải thứ tương đối luận của nhịnguyên7. Phải thật hiểu rõ bốn chữ THỜI, VỊ, TRUNG,CHÁNH thì đọc Dịch mới thông. Người quân tửkhông dùng đúng thời, đặt không đúng chỗ, sẽ khôngdùng được chỗ nào hết. Trái lại, kẻ tiểu nhân mà đặt5 Pháp Pháp cuộc cuồng phong vũ bão phải chăng là những động biếncủa khí Nóng Lạnh Ly Khảm, Dương Âm trên không trung để lập lạiquân bình một cách quá mạnh bạo. Các cuộc chiến tranh đẫm máucó tánh cách cách mạng cũng một Vì vậy có người gọi là “Siêu tương đối luận”. 26DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnđúng chỗ, dùng đúng thời, tiểu nhơn vẫn đắc không nói thị phi, Dịch chỉ nói về lẽ lợi hại, kiếthung mà thôi. Là vì Dịch chú trọng đến tự nhiên, gầnvới Lão-Trang hơn gần với tư tưởng Nho gia chútrọng nhiều về mối tương giao giữa người và Tiểu Quá , lời Thoán có câu “Nhu đắctrung, thị dĩ tiểu sự kiết dã. Cương thất vị nhi bấttrung, thị dĩ bất khả đại sự dã”. Trong quẻ Tiểu quá,hào 2 và 5 là hai hào đắc trung. Nhưng cả hai đều làhào Âm. Theo thông lệ, Âm là hàng tiểu nhơn. Dù Âmnhu tiểu mà đắc trung, thì làm việc nhỏ được thànhcông. Trái lại, làm việc lớn phải có tài dương vàDương có đắc vị mới làm được việc. Nhưng ở đây, haihào Dương đều “thất vị” cả, lại chẳng được “đắctrung”, làm sao đảm đương việc lớn cho nổi? Vì sự quan trọng của chữ Thời trong kinh Dịch,nên mới có câu “Chu Dịch nhứt bộ thơ, khả nhấtngôn nhi tế chi, viết THỜI”. Toàn bộ Chu Dịch, cóthể tóm có một lời, là chữ THỜI mà thôi. Dù có đến 64 quẻ, chỉ có một cơ một ngẫu màthôi. Nhưng vì hai chữ Thời và Vị không đồng nhaumới có cái biến vô cùng của sự vật. Con người cũngvật, chỉ có một động một tịnh, nhưng vì Thời và Vịkhông đồng nhau mới sinh ra vô số đạo lý khác dĩ gọi là dịch, chính vì thế. Hán Văn Lục thập tứ quái chỉ thị nhứt cơ nhứt ngẫu, đản nhân sở ngộ chithời, sở cư chi vị bất đồng, cố hữu vô cùng chi sự biến; nhơn chỉ thịnhứt động nhứt tịnh, đản nhân thời vị bất đồng, cố hữu vô cùng chiđạo lý. Thử sở dĩ vi Dịch dã. 27DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần Trước khi đọc Dịch cần có một luồng mắt thôngquan, nắm được một số nguyên lý căn bản thì đọcDịch mới có chỗ hứng thú và thụ dụng. Tuy sau đây,tôi chỉ trình bày một cách sơ lược, nhưng có thể tạmgọi là vừa đủ cho các bạn mới bắt đầu khỏi bị hoangmang trước một rừng tư tưởng đầy mâu thuẫn, nhưnglà những thứ tư tưởng bao trùm mà Tây phương ngàynay gọi là “pensée planétaire”, chứ không phải mộtthứ tư tưởng duy lý phiến diện và một chiều của Tâyphương lý trí. Triết học kinh Dịch là một thứ triết lý vô cùnghết sức thực dụng, và ngay trong công việc bốc phệcũng đều là cơ hội để nhắc nhở con người cái luậtphản phục, tức là cái đạo “tri tiến thoái, tồn vong nhibất thất kỳ chánh” của bậc thánh nhân tinh thôngDịch lý. Dù là được quẻ tốt hay xấu, dù là hỏi đến quẻhay không hỏi đến quẻ, dù chỉ đọc Dịch trong lúcthanh nhàn nghiên cứu, thì quẻ nào cũng luôn luônchỉ nói lên cho các bạn cái luật “phản phục, tiêutrưởng”, nhắc ta câu “phúc hề họa chi sở phục, họahề phúc chi sở ý”, chỉ đường mở nẻo cho cái đạo “tritiến thoái, tồn vong nhi bất thất kỳ chánh” như vừanói trên đây. Không một quẻ nào, dù Thái hay Bĩ, dùÍch hay Tổn, dù Ký tế hay Vị tế đều có cả những lờirăn đe nhắn nhủ. Bất cứ một quẻ nào, hễ dưới xấu thìtrên tốt, dưới tốt thì trên xấu, không một quẻ nào hoàn 28DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầntoàn tốt hay hoàn toàn xấu9. Việc trong thiên hạ đạiđể đều như thế cả. Dụng ý của thánh nhân thật làthâm diệu vô cùng. Dù ở thời nào, đứng ở cương vịnào, may hay rủi, không nên lạc quan mà cũng chẳngnên bi quan. Dịch giúp ta luôn luôn giữ được tinhthần điềm đạm. * 1. Vật có cùng mới có biến, nhưng “tiệm biến”chứ không “đột biến”, nghĩa là phải để ý đến luật“tiêu trưởng”. Phàm Âm tiêu thì Dương trưởng,Dương tiêu thì Âm trưởng. Thời Bĩ, âm trưởng dươngtiêu, tức là lúc tiểu nhân thạnh, quân tử suy, ngườiquân tử phải ẩn mới khỏi bị hại “thiên địa bế, hiềnnhân ẩn”. Đó là đạo minh triết bảo thần của Dịch, háriêng gì của nhóm Đạo gia. Hào Dương sinh ở quẻ Phục, đến lúc cực thịnhmới đến quẻ Kiền. Hào Âm sinh ở quẻ Cấu, đến lúccực thịnh mới đến quẻ Khôn, phải đâu việc một sớmmột chiều. “Tôi mà thí vua, con mà giết cha, nguyêndo đâu phải một sớm một chiều. Nó đã từ từ mà đếnnhư vậy!”. Cho nên việc gì cũng phải lo phòng bịngay lúc đầu phòng loạn hơn trị loạn. Luật “tiêu trưởng” do luật “phản phục”, chonên Dịch không chủ trương “tiến” mà nói “biến”.“Biến hóa giả, tiến thoái chi tượng”. [Hán Văn]. Biếnhóa, chỉ là cái tượng của sự tiến rồi thối.. Ngày đi,9 Có khi phải “tụ” mà không làm cho “tụ”; có khi phải “tán” mà lại làmcho “không tán”, cùng đều sai với cái đạo Dịch với chữ thời. Cho nên“tụ” hay “tán”, tụ nó không có cái nào hay hoặc dở cả. 29DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnđêm tới; đêm đến, ngày lui “nhất âm nhất dương chivị đạo”. Đó là bài học thứ nhất của Dịch, bàn về cáilẽ hợp tan, tan hợp. 2. Âm Dương đắp đổi nhau mà tác dụng, cho nênkhông có việc có âm hay có dương “Dương dĩ Âm vicơ; Âm dĩ Dương vi xương”… [Hán Văn] Dương lấyÂm làm nền; Âm dựa theo Dương mà theo. BởiDương xướng Âm họa, nên không có việc lấy Dươngmà trừ Âm hay lấy Âm mà trừ Dương một cách tuyệtđối. Chỉ có việc dùng Dương hay Âm để ức chế lẫnnhau hầu lập lại quân bình như Lão-Tử đã bảo“Thiên chi đạo, tổn hữu dư, bổ bất túc”. Hễ Âm thịnhthì ức Âm phò Dương, Dương thịnh thì ức Dương phòÂm, chứ không bao giờ có cái việc đề cao cái này đểphủ nhận cái kia, bất cứ là Thiện hay Ác. Dịch khôngphải là sách luân lý thông thường, nên không nói phảiquấy mà chỉ nói lợi hại. Đối với thiên đạo, chẳng baogiờ âm dương thiếu một phía mà thành sự; về nhânsự, chẳng bao giờ quân tử và tiểu nhân thiếu một bênmà thành việc. Quan hệ là tiêu trưởng ở bên nào“dương trưởng thì âm tiêu” thì thiên đạo đến hồiThái, nhân sự thông. Trái lại, nếu “âm trưởng dươngtiêu” thì thiên đạo đến cơn Bĩ, nhân sự bất thông bế. Dịch “lấy thiên đạo để hiểu nhân sự” [Hán Văn]tức là nói về cái lẽ “thiên nhơn hợp nhất”, đạo ngườivà đạo trời không rời nhau, luôn luôn tương thôngtương hợp ăn khớp với nhau như một thiên nhơn vinhất. Đó là bài học thứ hai của Dịch “thuận thiêngiả tôn, nghịch thiên giả vong”. Nhịp sống của con 30DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnngười phải hòa đồng cùng nhịp sống của vũ trụ thiênnhiên “Nhơn pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiênpháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”. 3. Vì luật “tiêu trưởng”, đọc Dịch cần lưu ý đếnhào Tứ, Ngũ, Lục của thượng quái, vì đó là lúc sự vậtbắt đầu sang qua giai đoạn “thịnh” cực có cùngcực mới có biến. Cái tốt đã bắt đầu tàng ẩn cái xấu,cái phúc đã bắt đầu ôm ấp cái họa. Từ Thái qua Bĩcũng bắt đầu từ hào tứ. Cho nên, hào tứ quẻ Bĩ trởlên gọi là “Bĩ cực”. “Bĩ cực” thì “Thái lai” là phải nhớ rằng quẻ có quẻ nội nội quái và quẻngoại ngoại quái. Nội quái hay ngoại quái là đểbiểu thị sự thành thịnh, suy hủy hay thành, trụ,hoại, không của mọi sự vật. Nội quái thì biểu thị sựthành, thịnh thì ngoại quái biểu thị sự suy hủy vàtrái nghịch lại. Phép nhìn Bát-quái-đồ, phải bắt trong nhìn cận với trung cung là phần nội phần căn bản;phần bên ngoài là phần ngoại, là phần ngọn “nội vichủ, ngoại vi khách”. Ghi quẻ thì bắt dưới ghi lên;đọc quẻ thì bắt trên đọc xuống. Về con số trong Dịch,thì con số nhỏ là “thiếu” nhỏ thuộc về thời sinh, consố lớn “tráng” thuộc về thời trưởng, con số lớn hơnhết “lão” là thời cực thịnh. Cho nên con số 1 làmạnh nhất ở đồ Tiên-thiên-Bát-quái, kế đến là số 3;số 1 là Thiếu Dương, 3 là Thái Dương. Số 2 làThiếu Âm, 4 là Thái Âm. Số 6 là Lão Âm, số 9 làLão Dương. 31DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần Các quẻ vì vậy, nếu xấu ở phần đầu nội quái,thì tốt ở phần sau ngoại quái; tốt ở phần nội quái thìxấu ở phần ngoại quái. Bởi vậy, thắng chớ vội mừng,mà đại thắng phải lo, vì như Héraclite đã nói “nhữngđại thắng là những đại bại” les plus grandesvictories sont les plus grandes défaites. Thái quá baogiờ cũng nguy. Đó là bài học thứ ba của Dịch “Tháicương tắc chiết” hết sức cứng thì gãy. 4. Dịch là tự nhiên, và dù là nhân vi cũng phảilàm đúng theo lẽ tự nhiên. Ngay sự chống lại tự nhiêntheo tự nhiên cũng là tự nhiên10. Cho nên mới nói“Dịch dữ thiên địa chuẩn”11, và “hoạch tiền nguyênhữu Dịch”12. Nghĩa là Dịch không phải luật lệ củacon người chế tác, mà là những luật lệ tự nhiên củaTạo hóa. Trước khi có Dịch, lý của Dịch đã nằm sẵntrong sự vật rồi. Lão-Tử bảo “Nhơn pháp Địa, Địapháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”.Người theo Đất Âm, Đất theo Trời Dương, Trờitheo Đạo, Đạo theo Tự nhiên. Bởi vậy, muốn trở vềvới Tự nhiên, với Đạo, phải theo sự biến hóa của ÂmDương, phải “tẩy Tâm thổi tàng ư Mật”, phải ý thứcrõ cái gì thuộc về nhơn vi để mà sống với nó nhưngkhông bị kẹt vào nó nữa, mới mong đi đến sự “phục10 Goethe nói “Pháp văn” Cái gì đối nghịch nhất đối với Tự nhiênlại cũng còn là Tự nhiên. Kẻ nào không nhận thấy nó trong tất cảmọi khía cạnh, không thấy được nó đâu cả. Nghịch lại với Tự nhiêncũng là tuân theo những quy luật của nó; hành động theo nó khi tamuốn làm nghịch lại với nó. Thật là một nhận xét sâu sắc khôngkhác gì nhận xét của Dịch lấy Trời Đất Âm Dương làm phép Trước khi vạch ra thành quẻ, Dịch đã nằm sâu trong Tạo hóa. 32DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnkỳ chân” mà sống huyền đồng với thiên nhiân tạo là bài học thứ tư của Dịch. * Nhìn trật tự của các quẻ trong Chu Dịch, ta thấytừ các quẻ Kiền Khôn là đầu não các quẻ, ta phải trảitám quẻ Truân, Mông, Nhụ, Sự, Tỵ, Tiểu súc và Lýmới đến quẻ Thái là hanh thông. Nhưng khi vừa quaquẻ Thái, lại tiếp liền quẻ Bĩ, tức là bế tắc. Phảichăng đây là một chân lý mà Dịch muốn chỉ cho tathấy Thành rất khó mà bại vô cùng dễ dàng và maulẹ, như tảng đá to mà chàng Sisyphe phải luôn luônđẩy lên đỉnh núi cao để rồi khi gần tới đỉnh lại rớt lăntrở về dưới vực một cực hình khổ sai chung thân,không phải riêng gì của chàng Sisyphe, mà là củatoàn thể loài người13. Trước cái luật phản phục ấy, cái luật “vật cùngtắc phản, vật cùng tắc biến”, cái luật thịnh suy, bĩ tháiấy, thánh nhơn ngày xưa khuyên khéo ta “Ôm giữchậu đầy, chi bằng thôi đi”. Dùng dao sắc bén, bénkhông bền lâu. Vàng ngọc đầy nhà, khó mà giữ sang mà kiêu, tự vời họa ưu. Nên việc lui thânđó là đạo Trời”. Cũng như trong Hệ từ cũng có căndặn “Quân tử an nhi bất vong nguy, tồn nhi bất vongvong, trị nhi bất vong loạn. Thị dĩ thân an nhi quốcgia khả bảo.”13 Pháp vănSisyphe, con của Eole và là vua xứ Corithe, sau khi chết, bị đày phảiđẩy một tảng đá to lên đỉnh núi cao, nhưng trước khi tới đỉnh thì tảngđá lăn trở xuống. Sisyphe phải lại đẩy lại như trước… luôn luôn suốtđời. 33DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần * 6. Dịch chia làm hai phần thượng kinh và hạkinh. Thượng kinh nói về những nguyên lý về Vũ trụ,lấy hai quẻ đầu Kiền và Khôn , tượng trưnghai khí Âm Dương bàn về lẽ Trời. Hạ kinh khởi bằnghai quẻ Hàm và Hằng nói về đạo người, bắt đầu làđạo vợ chồng. Nhưng, lúc giao tiếp hai phần Vũ trụvà Nhân sinh, cuối phần thượng kinh, thì lại để haiquẻ Khảm, Ly là tại sao? Như ta đã biết Kiền Khônlà hai quẻ thuần Dương và thuần Âm, nó là Thể,thuộc phần tiên thiên. Ly, Khảm là hai quẻ có cả ÂmDương nằm trong tức là Dương trung hữu Âm căn,Âm trung hữu Dương căn. Kiền Khôn chỉ là lưỡngnghi, Ly Khảm mới là tứ tượng, mới có được cái“dụng” của âm dương. Quẻ Ly chứa hào âmtrong lòng, quẻ Khảm chứa hào dương tronglòng, cho nên mới bảo hai quẻ ấy là hai quẻ “đắcthiên địa chi trung”, cầm đầu cho các quẻ bàn vềnhân sự ở hạ kinh. Đến phần cuối cùng của hạ kinh,tức là nói đến phần Chung kết của mọi sự vật, thì saolại để hai quẻ Ký tế và Vị tế? Là vì với hai quẻ nàymới nói lên rõ rệt công dụng của hai quẻ Khảm LyThủy Hỏa Ký tế và Hỏa Thủy Vị tế . Nhưng tại sao khi chấm dứt kinh Dịch không đểquẻ Ký tế mà lại để quẻ Vị tế? Ký tế là “đã xong”; Vịtế là “chưa xong”; cái gì “đã xong” thì là việc đãđếng chỗ cùng tận, - mà Dịch là biến. nếu lại có sựcùng tận thì sao có thể còn được gọi là Dịch nữa? 34DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần Dịch không có chỗ cùng. Không có chỗ cùng,tức là chỗ nhà Thiền gọi là “ưng vô sở trụ” còn Trangthì gọi là “vô hà hữu chi hương”. Dịch chung cuộc làHƯ VÔ, là Thái cực. Bởi vậy, học Dịch phải tìm cái“vô hạn” trong cái “hữu hạn”. Đó là bài học thứ sáucủa Dịch. * Học Dịch rất cần rất cần nghiên cứu về vấn đềtiên-thiên của Hà đồ và Lạc thư. Đó là để học cáiđạo “nội thánh ngoại vương” rõ được cái thể và cáidụng của Dịch. Hai phần này liên đới bổ túc nhau đểhoàn thành cái đạo xuất xử bất cứ ở trường hợp đồ rất quan trọng trong cái đạo tu thân giảithoát, Lạc thư rất quan trọng cho cái đạo xử thế“khai vật thành vụ” và “tu, tề, trị, bình”. Phần Lạc thư, vì vậy, chúng tôi sẽ dành nó riêngtrong một quyển sách sau này bàn về số học trong cáckhoa huyền bí chiêm nghiệm, nhan đề Đạo giáo. * Đó là những điểm tạm xem là căn bản của Dịch,có thể vừa đủ để đi vào kinh Dịch, mặc dù cũng cònrất nhiều chi tiết không kém quan trọng. Sau này, khiđi vào chi tiết của từng hào, từng quẻ sẽ lần lần nêura trong quyển Chu Dịch Huyền Giải. Cái khó củakinh Dịch, chẳng những ở những tư tưởng cô đọng vihuyền, lại còn ở văn tự. Văn tự kinh Dịch là thứ văntự đời Ân Chu, cho nên nghĩa chữ không thể dùngnghĩa chữ đời nay mà giải thích và hiểu hết. Nếu lạikhông thông cổ tự, không rõ lễ chế của nền văn hóa 35DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầncổ đại Trung-Hoa cũng không làm sao giải thích nổikinh Dịch. Chúng tôi đã bỏ rất nhiều công phu trongviệc nghiên cứu, nhưng bao giờ cũng thấy còn rấtnhiều thiếu sót, mong ước sẽ được những bậc caominh chỉ giáo. * Các bạn không nên tin rằng, sau khi đọc xongtập sách đại cương này, các bạn sẽ hiểu được tất cảnhững khoa áp dụng Dịch lý. Biết được đại cươngnhững nguyên lý chung của kinh Dịch là một việc, màbiết áp dụng nó trong các khoa lấy nó làm căn bản,lại là một việc khác, không còn dễ dàng như có nhiềungười đã nghĩ. Đối với người Đông phương, “tri” màkhông “hành” chưa phải là “chân tri”. Triết họcĐông phương là một đạo sống. Theo kinh nghiệm bản thân, chúng tôi nhận thấycó hai cách nghiên cứu và học Dịch. Đây chỉ là vấnđề kinh nghiệm bản thân, chưa ắt có lợi cho ngườikhác. Nhưng dù sao xin cứ thành thật trình bày, gọi làgóp thêm ý kiến. Hai cách học Dịch một, khời từtrong mà ra ngoài; hai, là bắt từ ngoài mà vào thứ hai, tốn nhiều công nhưng thiết thực hơn. Đành rằng đọc Dịch và học Dịch là phải đi ngayvào Dịch, đi ngay vào Kinh mà không nên đi ngay vàoTruyện hay những sách bình giải về kinh Dịch, nhưngđó là phần của các bậc thánh. Chúng ta, với đầu óctầm thường không thể theo đường lối ấy, Mặc dù saucùng cũng phải quên nó để hiểu nó. Chúng ta nêntheo phương pháp thứ hai là nghiên cứu nó song song 36DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnvới một bộ phận áp dụng nó như chánh-trị, xã hội, tuthân xử thế, tâm lý, luận lý, địa lý, thiên văn và ngaycả những khoa mà “nhà khoa học dè đặt” ngày naygọi là “khoa học huyền bí” chỉ vì họ chưa hiểu rõ lýdo bí hiểm của nó. Hoặc, các bạn nên tạo trước chomình một hứng thú để cho sự nghiên cứu về Dịchkhông còn là một cái học khô khan trừu tượng tôi muốn nói các bạn cứ đi ngay vào mộttrong những môn học dùng Dịch làm nguyên nhỏ chúng tôi rất thích đọc sách của từ Lão-Trang chúng tôi lại đi lần vào Đạo rồi càng ngày chúng tôi càng thấy mình hoangmang lạc lõng vì chúng tôi chưa hiểu gì cả về thuyếtÂm Dương Âm Dương là căn bản của Đạo giờ mới thấ y cái học của mình thiếu căn bảnthiếu Dịch. Đó là vì chúng tôi đi từ ngoài vào trong,tuy nhiên chính nhờ muốn hiểu Lão-Trang mà phải cốcông tri chí học Dịch không chán nãn. Học Dịch bấygiờ không còn thấy khó nữa, nhờ sự hứng thú đọcLão-Trang nuôi được chí kiên nhẫn học cho kỳ đượcDịch kinh. Một sự may khác không rõ là có phải làmay hay chẳng may, khi đang nghiên cứu Đạo giáo,về những cái học chiêm nghiệm như Y, Bốc, Tinh,Tướng và ma thuật, chúng tôi gặp được thầy chúng tôi, thực sự là cha nuôi của chúng tôi,một giang Đạo sĩ khét tiếng miền Hậu Giang LongXuyên rất thông Y thuật. Y thuật Đông phương đốivới chúng tôi bấy giờ là một cái học hấp dẫn vô lần chúng tôi mới khám phá ra rằng thầy chúng 37DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầntôi cũng tinh thông cả tiên thuật. Bấy giờ mới rõ đượccâu này trong nội kinh “Y đạo thông Tiên đạo”.Chúng tôi mới nhận thấy lời khuyên này của J. Lavier,trong quyển “Les Sercrets du YI-KING” là đúng“Pháp văn” Phải có biết trước ít nhiều về Đạo giáomới có thể đọc, nhất là nghiên cứu và khai thác Dịchkinh. Từ khi chúng tôi được bí truyền về những khoaNhâm, Cầm, Độn, Giáp chúng tôi học Dịch thấy càngthêm hứng thứ lạ, và sự hiểu biết của chúng tôi cả haibên càng ngay càng thêm tăng tiến mau lẹ. Có một vài bạn thân chế nhạo chúng tôi sao lạihọc chi những khoa “huyền bí” mà họ đồng hóa vớisự “mê tín dị đoan”. Thú thật, hiện giờ chúng tôikhông còn mặc cảm gì nữa đối với các thứ học hết óc tò mò của chúng tôi quá mạnh khôngcòn có một hiện tượng nào lạ xảy ra trước mắt màlàm cho chúng tôi thản nhiên được. Và kế đó, chúngtôi muốn thành thật với mình. Chúng tôi tin rằngngười mà hay thắc mắc đặt nhiều câu hỏi quá, có thểgiống như người đần độn; nhưng mà kẻ suốt đờikhông bao giờ biết ngạc nhiên và đặt câu hỏi, kẻ ấyđành chịu làm kẻ đần độn suốt đời. Tôi cho lời nóinày của Albert Einstein rất xác đáng “Pháp văn”Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí, đãmất cả cái quan năng biết ngạc nhiên, biết say đắmtrong niềm tôn kính trước những gì huyền bí, conngười ấy kể như một con người đã chết rồi.. Huốngchi với tình trạng khoa học tiến bộ mau lẹ gần nhưvượt bực ngày nay, kẻ nào còn nhân danh khoa học để 38DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnmiệt thị các khoa huyền bí là mê tín dị đoan, chính họmới là “lạc hậu” còn hơn những người mà họ “cười”là “lạc hậu”!. Tôi cho rằng lời nhận xét này của bácsĩ Jules Régnault rất đáng nghiền ngẫm “Phápvăn”Khoa học ngày nay phải chăng là một thứ huyềnbí học bị lột bộ mặt huyền bí của nó? * Dù sao, phần triết lý phải là phần chánh củaDịch học, các môn học khác rồi sẽ đều là phù phiếmhay phụ thuộc. Sau khi đã dùng các môn áp dụngDịch để chiêm nghiệm ý nghĩa huyền vi của Dịch, lâungày chúng tôi đã bỏ lần các môn học phụ ấy, mà chỉgiữ lại phần tinh túy là đạo tu nhân xử thế, tức là cáiđạo “nội thánh, ngoại vương” theo Trang hay theoLão. Dịch là một bộ sách đa diện và vô tậninépuisable sau một thời gian khá lâu chúng tôi đãsống với nó trong từng hơi thở “nhật dụng, thườnghành”, thế mà vẫn thấy nó vời vợi như non cao quađược đỉnh này lại thấy hiện ra sừng sửng trước mặttrùng trùng nhiều đỉnh khác… Phải có “sống” nhiều,đọc Dịch mới thấy thú. Lâm-Ngữ-Đường nói Khổng-Tử dặn năm mươi tuổi có thể đọc được kinh Dịch,tức là muốn nói, bốn mươi lăm tuổi cũng còn chưa thểđọc được kinh Dịch”. Phan-Sào-Nam về già mớinghiền nổi Dịch kinh. Lão-Tử bảo rất đúng “Thệ viết viễn, viễn viếtphản”[Hán Văn] Tràn khắp là đi xa, đi xa là trở nên học Dịch mà tán ra xa, thì xa mãi không bao 39DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầngiờ hết, càng ngày càng thêm phức tạp, có khi rồi lạiquên gốc vì quá mãi miết theo cái học trục vật. Cầnphải biết đủ mà dừng lại …Hán Văn… tri túc tri chỉ,để mà trở về. Đó là cứu cánh mục đích của nhữngngười học Đạo. Phần này chúng tôi đã trình trongquyển “Tinh hoa Đạo học Đông phương”. Biết đếncái “đạo đi về”, nên Dịch mới gọi là Dị dễ. Thựcvậy, Dịch rất đơn giản, rất dễ dàng. Chỉ gồm trongmột cái đồ, gọi là đồ Thái cực một cái hình tròn vớihai nghi đen trắng ôm ngoàm vào nhau một cáchđồng đều, tượng trưng luật quân bình. Thật là tàitình! Nhìn đồ Thái cực ta thấy rõ cái “đạo đi ra” thệvà cái “đạo đi về” phản. “Đạo đi ra”, bắt đầu từThái cực qua lưỡng nghi, Tứ tượng, Bát quái; còn“đạo đi về” bắt từ Lưỡng nghi trở về Thái cực hayThái nhất. Đi ra là đạo nhị nguyên. Trở về là đạonhất nguyên. Có đi ra, rồi lại có đi về mới hoànthành được trọn vẹn cái gọi là “nhất Âm nhất Dương 40DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnchi vị Đạo”. Câu “các hữu Thái cực”14 tóm lại đượccái đạo nhất nguyên, con đường cuối mà cũng là tinhhoa Dịch học. Dịch là nhất nguyên luận. Ngày xưa,Dương Quý Sơn đến thăm Thiềm Quý Lỗ, Quý Sơnhỏi Quý Lỗ về kinh Dịch. Quý Lỗ lấy một tờ giấytrắng, vẽ một vòng tròn, lấy mực đen bôi lên một nửa,cười bảo “đó là Dịch”! Có một nhà sư ở Quảng Nam, theo lời thuật củaPhan Văn Hùm, sau khi suốt đời người nghiên cứu vànghiền ngẫm kinh điển Phật giáo, đề lên trên vách bàithơ sau đây Kinh điển lưu truyền tám vạn tư, Học hành không thiếu cũng không dư. Năm nay tính lại chừng quên hết, Chỉ nhớ trong đầu một chữ “NHƯ”.1514 Tây phương gọi là “Tout est dans tout”, một nguyên tắc quan trọngnhất của Huyền học Tây Đọc quyển Tinh hoa Đạo học Đông phương, quyển sách bổ túccho quyển này, chuyên bàn về cái “đạo đi về” của Dịch, tức là phầncuối cùng của con người trên con đường tìm và thực hiện đạo Dịchnơi mình. 41DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnCHƯƠNG I 42DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnSÁCH CHU DỊCH Sách Chu-Dịch [Hán Văn] là một bộ sách co thểgọi là “kỳ thư” [Hán Văn], một bộ sách căn bản hàmchứa tất cả nguyên lý sinh thành vũ trụ và con người,nghĩa là gồm nắm tất cả khoa học và triết học như yhọc, thiên văn, lịch học, triết học siêu hình, xã hội,tâm lý… của Trung-Hoa đều bắt nguồn nơiquyển “kỳ thư” này, nhất là sách của Đạo gia. Theo sách Chu Lễ [Hán Văn] thì đời nhà Chu cóquan Thái-bốc [Hán Văn] chuyên xem về 3 bộ Dịch[Hán Văn] là 1. Liên sơn [Hán Văn] 2. Quy tàng [Hán Văn] 3. Chu Dịch [Hán Văn] Hai bộ Liên Sơn và Quy tàng đã lạc mất, chả rõvì lý do gì, chỉ còn lưu lại đến ngày nay bộ Chu Dịch[Hán Văn] mà thôi. Nay gọi Dịch kinh, chính là ChuDịch. Theo Hồ Văn Phong, thì Liên sơn là của nhà Hạ[Hán Văn], bắt đầu bằng quẻ Cấn, và Quy tàng là củanhà Thương [Hán Văn] bắt đầu bằng quẻ Khôn [HánVăn], và Chu Dịch là của nhà Chu bắt đầu bằng quẻKiền [Hán Văn]. Đỗ Tử Xuân [Hán Văn] cho rằng Liên sơn là củaPhục Hy [Hán Văn]; Quy tàng là của Hoàng đế [HánVăn]. Trịnh Huyền [Hán Văn] trong Dịch tán [Hán 43DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnVăn] và Dịch luận [Hán Văn] cũng viết Đời Hạ, thìcó Liên sơn; đời Ân thì có Quy tàng; đời Chu [HánVăn] thì có Chu Dịch [Hán Văn]. Liên sơn là cái hìnhtượng mây trong núi nhả ra luôn luôn không dứt; Quytàng là vạn vật không vật nào mà không trở về núpvào trong lòng đất tượng trưng ở quẻ Khôn. Còn Chu Dịch là bàn đến con đường biến hóacủa Dịch theo cái vòng tròn changements dans larévolution circulaire. Không biết Trịnh Huyền đã căncứ vào sách nào mà đưa ra cái kiến giải ấy? Theo sách Chu Lễ [Hán Văn] thì Liên sơn Dịchlấy quẻ Thuần Cấn16 [Hán Văn] làm đầu mối. Cấn lànúi, núi trên, núi dưới nên gọi là Liên sơn. Quy tàng Dịch, lấy quẻ “Thuần Khôn”17 [HánVăn] làm đầu mối. Khôn là đất, vạn vật không vật nàokhông trở về tàng ẩn nơi trong “Âm hàm Dương” bởivậy gọi là Quy tàng. Lão học về sau chủ trương theoQuy tàng Dịch lấy phần Âm làm nơi quy túc. Chu Dịch lấy quẻ “Thuần Kiền”18 [Hán Văn]làm đầu mối. Kiền là trời thì hay chu hành bốnphương, nên gọi là Chu19. Như thế thì chữ Chu Dịch16 [Hán Văn]17 [Hán Văn]18 [Hán Văn]16-17-18 Chu Lễ Thái Bốc sở vân Liên sơn Dịch dĩ Cấn vi thủ, Cấn viSơn, Sơn thượng sơn hạ, thị danh Liên sơn; Quy Tàng Dịch dĩThuần Khôn vi thủ, Khôn vi địa, vạn vật mạc bất quy nhi tàng ưtrung, cố viết Quy Tàng … Dĩ Chu Dịch hữu Thuần Kiền vi thủ,Kiền vi thiên, thiên năng chu trát tứ phương thời, cố danh vi ChuDịch dã.19 [Hán Văn] 44DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cầnkhông nên hiểu Kinh Dịch viết ở đời nhà Chu, vì chữChu [Hán Văn] đây là dùng để trở về thời đại, thì saoLiên sơn và Quy tàng lại không nhất trí dùng danh từHạ và Thương mà gọi là Hạ Dịch, Thương Dịch nhưđã gọi Chu Dịch. Chu [Hán Văn] đây có nghĩa là “phổ cập, phổbiến”. Trong Dịch Đại Truyện [Hán Văn] chỗ gọi làChu [Hán Văn] có nghĩa là “chu lưu” [Hán Văn] chảykhắp mọi nơi20. Hoàng Dĩ Chu [Hán Văn] trong “Quần-Kinh-Thuyết” [Hán Văn] cũng nói “Chu Dịch gốc của VănVương, không phải dùng để chỉ đời nhà Chu sau nhàThương”21. *20 [Hán Văn]21 [Hán Văn]19-20-21 Chu Dị chi danh, thủy ư Văn Vương, phi Chu cáchThương chi hậu. 45DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnNỘI DUNG VÀ TÁC GIẢ Chu Dịch Dịch-Kinh có hai bộ phận phân biệt 1. Phù hiệu 2. Văn tự A. PHÙ HIỆU Đầu tiên chỉ có phù hiệu, nghĩa là những nét vẽđể biểu tượng hai lẽ Âm Dương và những lẽ biếu hóado sự cấu tạo của hai lẽ ấy. Truyền thuyết cho rằng những phù hiệu ấy doPhục Hy sáng chế. Ông dùng một vạch liền đểbiểu thị khí Dương, vạch đứt để biểu thị khíÂm. Hai lẽ Âm Dương ấy, Dịch gọi là Lưỡng nghi sinh Tứ tượng là Thiếu dương, Tháidương, Thiếu âm, Thái âm. Tứ tượng sinh ra Bát quái, là Kiền, Đoài, Ly,Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Tóm lại, dưới đây là phù hiệu của Lưỡng nghi,Tứ tượng và Bát quái 1- Lưỡng nghi tượng trưng bằng 1 hào. Dương nghi Âm nghi 2- Tứ tượng tượng trưng bằng 2 hào chồng lên nhau. Thiếu dương 2222 46DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy CầnThái dương Thiếu âm 23Thái âm 3- Bát quái tượng trưng bằng 3 hào chồng lên Thái dươngĐoài Ly Thiếu dương24Chấn Tốn Thiếu âm25Khảm Cấn Thái âmKhôn Mỗi vạch liền hay đứt, gọi là hào [Hán Văn]. Haihào hợp lại thành một tượng [Hán Văn]. Ba hào hợplại thành một quẻ quái [Hán Văn]. Quái, cũng có 2 thứ 1. Đơn-quái. 2. Phần đông ghi tượng Thiếu dương với hào âm ở dưới. Phảighi hào dương ở dưới. Xem phần phụ chú về Tứ tượng – xemchương II Tứ tượng 47DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần a Đơn quái có tám, gọi là Bát quái. Trùng quái có sáu mươi bốn 8 x 8 = 64 do haiđơn quái chồng lên nhau. Đơn quái, cũng gọi là quẻTrinh; Trùng quái, cũng gọi là quẻ Hối.Tóm lại, đơn quái có 3 hào như quẻ Kiền trùng quái có 6 hào như quẻ Địa Thiên THÁI Nên để ý Ghi quẻ thì bắt dưới ghi lên hào dưới chót làhào sơ khởi – bắt đầu sinh, nhưng đọc quẻ thì bắt trênđọc xuống. Như quẻ Thái, quẻ trên là quẻ Khôn Địa,quẻ dưới là quẻ Kiền Thiên thì đọc là Địa nội ngoại, thì quẻ dưới là quẻ nội, quẻ trên làquẻ ngoại. Bắt dưới lên trên, thì 2 hào dưới là thờiThành, 2 hào giữa là thuộc về thời Thịnh và 2 hàotrên chót là thời Suy và Hủy. Nội quái là phần cănbản, phần gốc. Ngoại quái là phần ngọn, giai đoạncuối của sự vật. * Bát quái có 2 thứ Tiên thiên bát quái. Hậu thiên bát quái. Ở đây chỉ xin nói về Tiên thiên Bát quái, vì nórất quan trọng trong việc lập thành 64 quẻ “trùng”trùng quái như ta sẽ thấy sau đây. 48DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần Tiên thiên Bát Quái, sắp theo thứ tự Kiền 1,Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Tốn 5, Khảm 6, Cấn 7, Khôn 8thành một vòng tròn, gọi là vòng tiên thiên. Kiền 1Đoài Tốn 2 5Ly Khảm 36Chấn Cấn 4 7 Khôn 8 TIÊN THIÊN BÁT QUÁI Đồ số 1 Hậu thiên Bát quái, sắp theo thứ tự 1 Khảm, 2Khôn, 3 Chấn, 4 Tốn, 5 Trung, 6 Kiền, 7 Đoài, 8 Cấn,9 Ly. Bát quái cũng lại chia ra làm 2 loại loại bất dịchvà loại điên đảo dịch. 49DỊCH HỌC TINH HOA – Cụ Nguyễn Duy Cần1. Loại bất dịch dù lộn ngược vẫn không đổi nghĩa, có 4 quẻKiền Khôn Ly Khảm Bốn quẻ này đứng theo hàng ngang là LyKhảm [Hán Văn] và hàng dọc là Kiền Khôn[Hán Văn]. Đó là 4 quẻ chánh26 căn bản cho 2 khí ÂmDương tiên thiên Kiền Khôn và hậu thiên LyKhảm, gặp nhau lập thành chữ Thập +. Điểmgặp gỡ ấy, gọi là điểm Thái cực, chỗ hợp nhấtcủa Âm Dương, cũng gọi là điểm Thái hòa, Tháihư hay Thái nhất điểm 0. KIỀN Dương tiên thiên LY KHẢMDương hậu thiên Âm hậu thiên KHÔN Âm tiên thiên Đồ số 226 Tứ chính giả Kiền, Khôn, Ly, Khảm dã. Quan kỳ tượng vô phảnphúc chi biến, sở dĩ vi chính dã [Hán Văn]Tứ chính, đó là những quẻ Kiền, Khôn, Ly, Khảm. Sở dĩ gọi làchính, vì khi nhìn đến tượng của chúng, ta không thấ có sự biến đổphản phúc. Thiệu-Ưng. 50
Vui lòng chọn định dạng file để tải. Cuốn sách “Dịch học tinh hoa” bản đầy đủ gồm 293 trang của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần được xem là một bộ sách quý. Tuy nhiên Kinh Dịch có từ bao giờ, đến nay vẫn chẳng ai hay bởi vì từ đời vua Phục Hy tương truyền đã bắt đầu có Kinh Dịch mà ông vua thần thoại này xuất hiện cách đây hàng hàng nghìn năm hay hàng vạn năm chưa có gì chứng thực. Chỉ biết rằng trải qua hàng nghìn năm, không biết bao nhiêu vị thánh hiền đã bổ sung, lý giải, mở rộng, đào sâu để cho Kinh Dịch trở thành một tác phẩm lạ lùng, vừa uyên thâm, vừa mênh mông, vừa cụ thể, bao hàm muôn lý, không gì không có, đọc nhiều cũng được, đọc ít cũng hay, vì chỉ đôi câu đã đủ làm thành một đạo lý. Đời nhà Tống, khi viết lời tựa cho việc xuất bản Kinh Dịch, Trình Di đã phải thốt lên “Thánh nhân lo cho đời sau như thế có thể gọi là tột bậc!”. Kể cũng lạ thật, người xưa cho rằng “Trong khoảng trời đất có gì? Chỉ hai chữ âm dương mà thôi…”. Chẳng là nhân thì là nghĩa, chẳng cứng là mềm, chẳng thừa là thiếu, chẳng nam là nữ, chẳng trên là dưới, chẳng trong là ngoài, chẳng thịnh là suy, chẳng tiến là lui, chẳng mặn là nhạt, chẳng nóng là mát, chẳng nhanh là chậm. Trong hoạt động của con người, âm dương luôn biến động song vẫn tạo được thế cân bằng nhờ sự tự điều chỉnh của cơ thể, nếu không sẽ sinh bệnh. Trong hoạt động xã hội, cái thế của nó là dịch, cái lý của nó là đạo, cái dụng của nó là thần, âm dương khép ngỏ là dịch, một khép một ngỏ là biến. Dương thường thừa, âm thường thiếu, đã không bằng nhau thì sẽ sinh muôn vàn biến đổi. Đạo trong gầm trời này chỉ là thiện ác nhưng cái thời cái cơ của mỗi người mỗi lúc là không giống nhau. Phải hiểu sâu sắc tu, tề, trị, bình thì mới quản lý được xã hội, mới giữ gìn được giang Càng đọc Kinh Dịch tôi càng thấy không thể đọc vội vã như xem tiểu thuyết. Nên đọc dần từng đoạn vào lúc yên tĩnh, lúc tâm hồn yên ả, thanh thoát thì đạo lý mới lưu thông, nghĩa tình mới bao quát. Khổng Tử bảo là phải “học Dịch” chứ không phải “đọc Dịch” kể thật chí lý! Nhưng thời gian quá ít, học vấn có hạn nên hấp thụ chưa được bao nhiêu, chỉ thấy lý thú mà viết nên những dòng này, mong nhiều người tìm mua, tìm đọc. Tiếc rằng sách in quá ít 1000 bản giá bán quá cao 60 nghìn đồng,liệu mấy ai mua được đọc được? Xin nêu lên vài điều tâm đắc khi bước đầu học Trong quẻ Kiền có lời Kinh “Thượng hạ vô thưởng, phi vi tà dã tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã”… lên xuống bất thường, không làm điều xấu, tiến lui không nhất định, đừng xa rời quần chúng…. Trong quẻ Truân có lời Kinh “Tuy bàn hoàn chỉ hành chính dã. Di quý hạ tiện, đại đắc dân dã…” tuy gian truân có chí sẽ làm nên, là người hiền chịu dưới kẻ hèn nhưng rồi sẽ được dân tin…. Trong quẻ Mông có lời Kinh “Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã…” Quẻ Nhu có lời Kinh “Nhu, hữu phu, quang hanh,trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên…” Mềm mỏng nếu có lòng tin sẽ sáng láng hanh thông chính bền là tốt có lợi cho việc vượt sông lớn…. Quẻ Tụng có lời Kinh”Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã” Trong thì nghe không lệch, chính thì xét xử hợp tình… Trong thời buổi cái đúng cái sai còn lẫn lộn, người tốt người xấu chưa tường minh, khó chung khóriêng đầy rẫy, nhưng cái gốc của dân mãi mãi là tốt, đường lối đi lên đã được mở, tôi mong sao mỗi người hàng ngày có chút thời gian bình tâm đọc Kinh Dịch, nghe lời người xưa mà ngẫm chuyện ngày nay, nghe lời thiện mà tránh điều ác, nghe lời nhân mà làm điều nghĩa.
Dịch Học Tinh Hoa Dịch học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần trình bày những phần cốt lõi và tinh hoa nhất của tác phẩm Chu Dịch, giúp người đọc có hiểu biết căn bản từ thấp tới cao, cũng như những ứng dụng của Chu Dịch vào đời sống hiện đại. Nguyễn Duy Cần 1907-1998, hiệu Thu Giang, là một học giả, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20. Ông nổi bật không chỉ về số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu của học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức của ông. Ông sinh ngày 15 tháng 7 năm 1907 tại làng Điều Hoà, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho nay thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng.....
dịch học tinh hoa